Chính phủ vừa ban hành Nghị định số
113/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
108/2014/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế.
Cụ thể, Nghị định bổ sung thêm đối tượng tinh giản biên chế là: Cán bộ,
công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý thôi giữ chức vụ do sắp xếp tổ
chức bộ máy theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, tự nguyện thực
hiện tinh giản biên chế và được cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý đồng
ý.
Bên cạnh đó, Nghị định cũng bổ sung
thêm trường hợp tinh giản biên chế: Những người đã là cán bộ, công chức,
viên chức được cơ quan có thẩm quyền điều động sang công tác tại các
hội được giao biên chế và ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí để trả
lương nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm đ, e, g khoản
1 Điều 6 Nghị định số 108/2014/NĐ-CP.
Ngoài ra, Nghị định số 113/2018/NĐ-CP
còn sửa đổi một số đối tượng tinh giản biên chế đã quy định tại Nghị
định số 108/2014/NĐ-CP. Trong đó có trường hợp những người đã là cán bộ,
công chức được cơ quan có thẩm quyền cử tham gia quản lý hoặc đại diện
theo ủy quyền đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước
mà dôi dư do cơ cấu lại doanh nghiệp đó.
Bổ sung cách tính trợ cấp
Nghị định số 113/2018/NĐ-CP quy định về
cách tính trợ cấp. Cụ thể, thời điểm được dùng làm căn cứ để tính đủ
tuổi đời hưởng chế độ, chính sách nghỉ hưu trước tuổi là ngày 01 tháng
sau liền kề với tháng sinh của đối tượng; trường hợp trong hồ sơ của đối
tượng không ghi rõ ngày, tháng sinh trong năm thì lấy ngày 01 tháng 01
của năm sau liền kề với năm sinh của đối tượng.
Thời gian để tính trợ cấp là thời gian
làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và các hội được
tính hưởng bảo hiểm xã hội và đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc (theo sổ bảo
hiểm xã hội của mỗi người), nhưng chưa hưởng trợ cấp thôi việc hoặc
chưa hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần hoặc chưa hưởng chế độ phục
viên, xuất ngũ. Nếu thời gian tính trợ cấp có tháng lẻ thì được tính
tròn theo nguyên tắc dưới 3 tháng thì không tính; từ đủ 3 tháng đến đủ 6
tháng tính là 1/2 năm; từ trên 6 tháng đến dưới 12 tháng tính tròn là 1
năm.
Khi thực hiện tinh giản biên chế không
đúng đối tượng theo quy định của pháp luật, người đã hưởng chính sách
tinh giản biên chế và cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý trực tiếp người
đó có trách nhiệm như sau:
a) Người đã hưởng chính sách tinh giản
biên chế phải hoàn trả số tiền đã thực nhận khi thực hiện chính sách,
chế độ tinh giản biên chế theo quy định. Trường hợp người đó đã mất
trong thời gian nghỉ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội thì sẽ không phải hoàn
trả kinh phí đã nhận, số kinh phí này sẽ do cơ quan, tổ chức, đơn vị
quản lý trực tiếp người đó sử dụng kinh phí thường xuyên để thanh toán,
ngân sách nhà nước không bổ sung kinh phí.
b) Cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý
trực tiếp người thực hiện tinh giản biên chế có trách nhiệm: Thông báo
cho cơ quan bảo hiểm xã hội dừng thanh toán chế độ bảo hiểm xã hội cho
người thực hiện tinh giản biên chế không đúng quy định; chuyển cho cơ
quan bảo hiểm xã hội số kinh phí đã chi trả cho người thực hiện tinh
giản biên chế trong thời gian hưởng chế độ bảo hiểm xã hội (lương hưu,
trợ cấp bảo hiểm xã hội, kinh phí mua thẻ bảo hiểm y tế); chi trả cho
người thực hiện tinh giản biên chế số tiền chênh lệch giữa chế độ người
đó được hưởng theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên
chức với chế độ người đó đã hưởng theo quy định của pháp luật về bảo
hiểm xã hội; thanh toán cho các tổ chức liên quan các chế độ cán bộ,
công chức, viên chức được hưởng theo quy định; chịu trách nhiệm thu hồi
tiền hưởng chế độ, chính sách tinh giản biên chế đã cấp cho cán bộ, công
chức, viên chức.
Theo:chinhphu.vn