Tư
tưởng đoàn kết đến với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh khá sớm. Ngay từ
những năm 1920, khi còn đang bôn ba hoạt động tìm đường cứu nước ở nước
ngoài, trong nhiều bài báo, bài nói chuyện, Người đã kêu gọi tinh thần
đoàn kết giữa người lao động ở các nước chính quốc với quần chúng nhân
dân ở các nước thuộc địa. Lời kêu gọi đã dần dần thức tỉnh những người
cộng sản, những người dân chủ ở các nước quan tâm nhiều hơn đến phong
trào giải phóng dân tộc ở những nước đang bị chế độ thực dân xâm chiếm.
Kể
từ khi trở về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc, Hồ Chí Minh càng có điều kiện hiểu sâu hơn giá trị của tinh thần
đoàn kết. Những ai nghiên cứu về lịch sử văn hóa Việt Nam từ thời Hùng
Vương dựng nước, đều không xa lạ với câu chuyện Lạc Long Quân lấy bà Âu
Cơ sinh ra 100 trứng. Từ “bọc trứng” đó sản sinh ra hàng triệu, hàng
chục triệu người Việt Nam sau này. Từ đó, trong ngôn ngữ Việt Nam, từ xa
xưa đã xuất hiện hai tiếng “đồng bào”. Đồng bào có nghĩa là cùng chung một bọc trứng
(đồng = cùng, bào = bọc). Hai tiếng “đồng bào” từ xa xưa vốn đã mang ý
nghĩa một thông điệp cực kỳ quan trọng: những người Việt Nam chúng ta,
dù sinh sống ở đâu, ở trong hay ngoài nước, ở vùng đồng bằng hay rừng
núi, hải đảo đều có chung một cội nguồn, một sự gắn bó máu thịt với
nhau. Tất cả chúng ta đều có chung một bà mẹ. Tất cả chúng ta đều là
những phần tử từ bọc trứng của mẹ Âu Cơ. Có lẽ Hồ Chí Minh là người hiểu
sâu sắc nhất ý nghĩa to lớn của tinh thần đoàn kết và phổ biến sâu rộng
chân lý đó trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.
Ngay
khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước ta, cùng với rất nhiều
hoạt động thực tiễn nhằm tuyên truyền tổ chức lực lượng cách mạng, Hồ
Chí Minh đã dành thời gian để viết cuốn “Lịch sử nước ta” bằng
thơ. Chắc chắn đây không phải là công việc dễ dàng, vì đòi hỏi ở tác giả
một vốn kiến thức phong phú và hệ thống về lịch sử dân tộc. Một tập thơ
ngắn, chưa đầy 250 dòng, nhưng đã thâu tóm được toàn bộ lịch sử Việt
Nam từ thời Hùng Vương dựng nước đến các phong trào cách mạng đầu thế kỷ
XX. Đây là một hành động vô cùng cần thiết để tổ chức và huấn luyện,
giáo dục cán bộ, đảng viên và quần chúng lúc bấy giờ. Tư tưởng chủ đạo
của tập “diễn ca” “Lịch sử nước ta” là cùng với chủ nghĩa yêu
nước, dân tộc ta đã sớm phát huy tinh thần đoàn kết (đoàn kết trong các
triều đại phong kiến, đoàn kết toàn dân, và quan trọng nhất là sự đoàn
kết chung sức chung lòng giữa những người lãnh đạo đất nước với toàn thể
nhân dân). Đồng thời cho thấy, thời kỳ nào mà triều đình phong kiến
quay lưng lại với nhân dân, thì tất yếu khối đoàn kết dân tộc bị lỏng
lẻo và thời kỳ đó đất nước, nhân dân - đồng bào thường bị lâm vào cảnh
bị áp bức bóc lột. Hồ Chí Minh viết:
“Kể gần sáu trăm năm giời
Ta không đoàn kết bị người tính thôn”.
Có thể dẫn thêm một số ví dụ từ “Lịch sử nước ta” của
Bác Hồ về sự thắng - bại liên quan đến tinh thần đoàn kết, như: Thời
Mai Hắc Đế, dù rất thương dân bị lầm than đau khổ, Mai Hắc Đế đã lãnh
đạo cuộc chiến tranh chống xâm lược Tàu, nhưng:
“Vì dân đoàn kết chưa sâu
Cho nên thất bại trước sau mấy lần”.
Trái
lại, đến đầu thế kỷ XVIII, với sự xuất hiện của người anh hùng áo vải
Nguyễn Huệ, nhân dân ta đã “cùng nhau một lòng” giành được những chiến
công rực rỡ:
“Nguyễn Huệ là kẻ phi thường
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm giặc Tàu
Ông đà chí cả mưu cao
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng
Cho nên Tàu dẫu tàn hung
Dân ta vẫn giữ non sông một nhà…”.
Nói
là tổng kết lịch sử, nhưng thực chất là rút ra những bài học lớn mà cha
ông để lại. Trong hoàn cảnh những năm đầu của cách mạng, bài học lớn
nhất của lịch sử, theo Bác Hồ là bài học về tính cộng đồng, về tinh thần
đoàn kết. Chính vì vậy, kết thúc tập thơ “Lịch sử nước ta”, Người viết:
“Hỡi ai con cháu Rồng Tiên
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau.
… Dân ta xin nhớ chữ đồng
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”.
Khám
phá ra những bài học lịch sử của quá khứ là để hiểu những thông điệp,
những lời truyền dạy của tổ tiên. Tinh thần đó được thể hiện rất rõ
trong dịp Trung ương và quân đội ta trở về tiếp quản Thủ đô (1954). Khi
Bác Hồ cùng Đại đoàn Quân Tiên phong dừng chân tại Đền Hùng (Phú Thọ),
tại đây Người nói một câu bất hủ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Có thể coi đó là lời thề thiêng liêng của Bác, của cả dân tộc trước anh
linh tổ tiên. “Công dựng nước” mà Bác nói ở đây không chỉ có ý nghĩa
tạo lập nên giang sơn đất nước, mà còn có ý nghĩa tạo ra sức sống và hồn
cốt của dân tộc. Vì vậy, “giữ lấy nước” mà Người nói cũng có nghĩa phải
giữ lấy từng tấc đất của Tổ quốc, đồng thời, phải giữ cho được những
đạo lý làm người Việt Nam mà tổ tiên ta đã dày công vun đắp.
Sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta lại phải đương đầu với các
cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược và cuộc kháng chiến chống xâm lược của đế quốc
Mỹ. Đó là các cuộc chiến tranh hoàn toàn không cân sức. Về phương diện
kinh tế, vũ khí, đất nước ta thua xa đối phương. Trong tình thế ngàn cân
treo sợi tóc trong những ngày đầu kháng chiến, trong các bài phát biểu
của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết.
Chính câu nói “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”
đã được Người nói ra trong thời kỳ gian lao nhất của cách mạng, của dân
tộc. Bằng cảm nhận thực tế một cách sâu sắc, Người đã phát hiện ra một
số biểu hiện đáng lo ngại trong nhân dân, trong cán bộ và cả trong quân
đội. Tuy chưa thật phổ biến, nhưng rõ ràng những hiện tượng “dao động”,
“phân tâm”, “mơ hồ” đó sẽ làm suy yếu tinh thần cách mạng trong cán bộ,
đảng viên, nhân dân và quân đội. Vì vậy để diễn đạt đầy đủ tư tưởng của
mình, Người nhấn đi nhấn lại 3 lần chữ “đoàn kết” và cũng nhấn 3 lần chữ
“thành công”. Có đoàn kết thì sẽ thành công và muốn thành công thì
trước hết phải đoàn kết. Lịch sử dân tộc đã chứng minh điều đó. Ngoài
yêu cầu phải đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh còn luôn nhấn mạnh đến đoàn
kết giữa nhân dân và quân đội; đoàn kết giữa nhân dân với cán bộ, đảng
viên; đoàn kết trong nội bộ các cơ quan, các tổ chức Đảng và Nhà nước.
Ngoài
ra, ở thời đại Hồ Chí Minh, mối liên hệ giữa các quốc gia dân tộc không
ngừng mở rộng. Sự liên kết quốc tế giữa các quốc gia đã hình thành.
Chính xuất phát từ đó, chữ “đại đoàn kết” mà Bác Hồ dùng ở đây còn có ý
nghĩa mới: đoàn kết giữa dân tộc ta, cuộc kháng chiến của chúng ta với
lương tri ở mọi quốc gia trên thế giới. Tư tưởng đoàn kết của Bác đã
nhanh chóng trở thành động lực của các cuộc kháng chiến và cũng là động
lực trong xây dựng đời sống mới, trong các quan hệ xã hội mới trên đất
nước ta.
Tư
tưởng đoàn kết của Người cũng đã tạo nên một luồng sinh khí mới trong
đời sống văn hóa, nghệ thuật của dân tộc. Hàng loạt các tác phẩm thuộc
các loại hình thơ, ca, văn xuôi, kịch, báo chí… của những văn nghệ sĩ
tiêu biểu đã góp phần thắp sáng tư tưởng lớn của Bác. Hình ảnh cán bộ
với nhân dân, quân đội với nhân dân được thể hiện một cách hấp dẫn như
“cá với nước”. Một trong những thành công về phương diện này phải kể đến
các tác phẩm như bài thơ “Bộ đội về làng” của Hoàng Trung Thông, bài hát“Tấm áo mẹ vá năm xưa”
của Nguyễn Văn Tý... Những bài thơ, bài ca của thời kỳ lịch sử đó, cho
đến nay vẫn in đậm trong trái tim, khối óc của hàng triệu triệu người
Việt Nam. Những thiên phóng sự về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc
của các nhà văn, nhà báo, học giả đến từ nước ngoài, đã minh chứng cho
sự thắng lợi - thành công gắn liền với tư tưởng đại đoàn kết của Bác Hồ.
Ngày
nay cùng với sự xuất hiện nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập
quốc tế ngày càng sâu, bên cạnh nhiều thuận lợi giúp đất nước phát triển
nhanh chóng, dân tộc ta cũng phải đương đầu với không ít thách thức,
đặc biệt trong lĩnh vực đời sống tinh thần. Trong lịch sử cách mạng nước
ta, có lẽ chưa có lúc nào chủ nghĩa cá nhân, đầu óc trục lợi lại xuất
hiện khá phổ biến như hiện nay. Đáng chú ý, nhiều tính toán ích kỷ, xấu
xa, sẵn sàng “bán rẻ linh hồn cho quỷ sứ” đã và đang xuất hiện trong một
bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, trong đó có những cán bộ ở cấp cao,
cấp chiến lược.
Khi
một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo đức và lối
sống, thì sự suy thoái đó sẽ như những “vi rút độc” tìm cách thâm nhập,
lan rộng vào những người thiếu “sức đề kháng”, bao gồm cả cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân. Nếu “vi rút” này không được ngăn chặn hữu
hiệu, thì nguy cơ đầu tiên - nguy cơ của mọi nguy cơ - mà chúng ta phải
nhận chính là sự suy giảm niềm tin - mất đoàn kết - thiếu thống nhất
trong Đảng, giữa Đảng với nhân dân, giữa nhân dân với Đảng.
Hồ
Chí Minh từng nhiều lần phê phán thái độ “làm quan cách mạng” của một
số cán bộ Đảng và Nhà nước, phê phán tư tưởng bè phái trong một số thôn
xã, phê phán việc phân biệt các sắc tộc - chủng tộc, phê phán hiện tượng
một số cán bộ quân đội còn làm phiền hà nhân dân… Đó là những nguyên
nhân làm ảnh hưởng, suy thoái tinh thần đoàn kết của nhân dân.
|
Ngay từ 1969, khi hoàn thành bản Di chúc lịch sử, Bác Hồ đã yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên “phải giữ gìn sự đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Câu nói đó của Người chắc chắn có nguồn gốc từ một thực tế lúc bấy giờ,
tuy rằng thực tế đó chưa trở thành một hiện tượng xã hội lớn. Nhưng,
như trên đã nói, sự xuất hiện kinh tế thị trường và hậu quả từ mặt trái
của nó, sẽ là “cái bẫy” của “xã hội tiêu dùng vật chất” khiến không ít
người lao vào tiền bạc, tiện nghi, thậm chí trác táng trong lối sống.
Đối với họ, các khái niệm “hy sinh”, “lý tưởng”, “đầy tớ của dân” đã
trở nên xa lạ. Trước tình hình đó, từ sau Đổi mới, Đảng ta đã có rất
nhiều nghị quyết nhằm xây dựng chỉnh đốn Đảng. Đích thân Tổng Bí thư,
Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã trực tiếp chỉ đạo hoạt động của Ban
Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng… Các nghị quyết gần đây
của Đảng đã khẳng định chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù không đội trời chung
với đạo đức cách mạng. Đảng yêu cầu các tổ chức đảng, các cơ quan pháp
luật phải nghiêm trị những cán bộ, đảng viên suy thoái, tự diễn biến…
bất cứ họ là ai, ở cương vị nào, đương chức hay đã nghỉ hưu. Tinh thần
và nội dung của các nghị quyết gần đây của Đảng trong công cuộc chống
tham nhũng, suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên đang từng bước góp phần làm trong sạch Đảng, nâng cao
đạo đức của người cán bộ. Từ đó, Đảng sẽ từng bước thực hiện bằng được
lời dạy của Bác: phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình.
Khi
sự đoàn kết thực sự trong Đảng được củng cố thì trí tuệ của Đảng, trái
tim của Đảng sẽ trở nên trong sáng. Sự trong sáng đó sẽ tỏa ánh sáng
trong đời sống quần chúng nhân dân. Chỉ khi đó đất nước chúng ta mới có
đủ các điều kiện phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu như
Bác Hồ từng mong muốn. Và cũng chỉ khi đó mỗi người Việt Nam mới có đủ
điều kiện, toàn tâm toàn ý thực hiện lời kêu gọi của Người:
“Hỡi ai con cháu Rồng Tiên
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau”./.
GS. TS. Trần Văn Bính
_____________________________
(Bài đăng trên Tạp chí Tuyên giáo số 9/2019)