Hiện nay,
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không còn là một khái niệm mới đối
với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, các hoạt động về trách
nhiệm xã hội tại phần lớn các doanh nghiệp mới chỉ được hiểu là các
khoản đóng góp từ thiện, chia sẻ cộng đồng hoặc là công tác xã hội tự
nguyện của doanh nghiệp. Bài viết làm rõ vai trò thực hiện trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp Việt Nam và gợi mở một số đề xuất để nâng cao
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập sâu rộng
hiện nay.
THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Ở Việt Nam, việc thực
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (DN) vẫn được xem là một hành
động giải quyết các vấn đề xã hội vì các mục đích từ thiện và nhân đạo.
Trong khi đó, trách nhiệm xã hội nhìn chung phải được hiểu là cách thức
mà một DN đạt được sự cân bằng hoặc kết hợp những yêu cầu về kinh tế,
môi trường và xã hội; đồng thời, đáp ứng những kỳ vọng của các cổ đông
và các bên đối tác. Cách thức mà DN tương tác với các cổ đông, người lao
động, khách hàng, nhà cung cấp, chính phủ, các tổ chức phi chính phủ,
các tổ chức quốc tế và các đối tác khác luôn được coi là một đặc điểm
then chốt của khái niệm trách nhiệm xã hội DN. DN thực hiện trách nhiệm
xã hội sẽ khẳng định thương hiệu của mình trong xã hội. Do đó, đồng hành
vào sự phát triển chung của đất nước không chỉ là trách nhiệm mà còn là
lợi ích cho DN, từ đó, tạo ra giá trị nhân văn, văn hóa DN cũng như
tăng khả năng cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập sâu vào nền kinh tế thế
giới.
Trong quy chế và tiêu chí xét thưởng của Giải thưởng trách nhiệm xã hội
DN từ năm 2009 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đề
xuất, bên cạnh việc thực hiện trách nhiệm xã hội DN ở 2 lĩnh vực lao
động và môi trường còn đặt thêm tiêu chí “hoạt động kinh doanh có hiệu
quả kinh tế”. Việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội DN chính là đầu tư
cho chiến lược kinh doanh dài hạn và tăng trưởng bền vững của DN.
Những năm gần đây, ở Việt Nam đã có không ít DN chủ động thực hiện trách
nhiệm xã hội, nhờ đó đã tạo dựng được thương hiệu. Từ năm 2005, Việt
Nam đã có giải thưởng "trách nhiệm xã hội DN hướng tới sự phát triển bền
vững" được tổ chức bởi VCCI, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ
Công Thương cùng các hiệp hội tổ chức tôn vinh các DN thực hiện tốt công
tác trách nhiệm xã hội trong bối cảnh hội nhập.
Trách nhiệm xã hội DN du nhập vào Việt Nam thông qua các hoạt động đầu
tư của các công ty đa quốc gia. Do đó, hoạt động trách nhiệm xã hội
thường được các công ty này thực hiện bởi các bộ quy tắc ứng xử, chuẩn
mực văn hóa kinh doanh và được thực hiện có bài bản, đạt hiệu quả cao.
Điển hình như: Chương trình cùng nhau làm sạch trái đất của Công ty
Ajinomoto Việt Nam; Chương trình giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ em tại
các tỉnh miền núi của Công ty Unilever; Chương trình khôi phục thị lực
cho trẻ em nghèo của Western Union...
Các công ty trong nước tham gia thực hiện trách nhiệm xã hội chủ yếu đến
từ các công ty xuất khẩu, là đối tượng tiếp cận trực tiếp đến trách
nhiệm xã hội. Hầu hết các đơn hàng đến từ châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản
đều yêu cầu các công ty Việt Nam áp dụng chế độ lao động tốt (tiêu chuẩn
SA8000 đối với các DN dệt may) hay đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm
(đối với các DN nông nghiệp và thủy sản). Trong khi đó, các DN nước
ngoài hợp tác kinh doanh với các DN Việt còn yêu cầu đáp ứng các tiêu
chuẩn quản trị công ty tốt (đối với các công ty tài chính và ngân hàng).
Lao động trong nhiều DN có vốn đầu tư nước ngoài cũng ngày càng được
quan tâm bảo vệ quyền lợi.
Không
ít doanh nghiệp chưa hiểu rõ hết vai trò quan trọng cũng như lợi ích từ
việc thực hiện trách nhiệm xã hội mang lại nên đã thực hiện chưa nghiêm
túc trách nhiệm xã hội của mình. Điều đó thể hiện ở các hành vi gian
lận trong kinh doanh, sản xuất hàng kém chất lượng, cố ý gây ô nhiễm môi
trường để tối đa hóa lợi nhuận... |
Thực tế cho thấy, qua rà soát, đánh giá
các điều khoản trong thỏa ước lao động tập thể của Liên đoàn Lao động
tỉnh Bắc Giang thực hiện yêu cầu thành lập thư viện thỏa ước điện tử của
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, có tới 80% thỏa ước trên địa bàn tỉnh
này có từ 3 - 5 nội dung có lợi cho người lao động nằm ngoài các quy
định bắt buộc của pháp luật lao động. Một số DN thực hiện nghiêm việc ký
mới, ký lại hoặc bổ sung phụ lục phát sinh với điều khoản có lợi cho
người lao động, như: Công ty TNHH Nichirin Việt Nam (Khu công nghiệp
Quang Châu, Bắc Giang) có điều khoản cho phép công nhân nghỉ giữa ca để
giảm căng thẳng; Công ty TNHH Việt Pan Pacific (TP. Bắc Giang) khen
thưởng lao động tích cực theo tuần, theo tháng; Công ty TNHH Haem Vina
(Khu công nghiệp Song Khê - Nội Hoàng, Bắc Giang) phát vitamin cho công
nhân nữ có thai và ứng trước tiền lương 6 tháng nghỉ thai sản cho lao
động nữ sinh con để bảo đảm chi phí sinh hoạt…
Tuy nhiên, thực tế còn không ít DN chưa
hiểu rõ hết vai trò quan trọng cũng như lợi ích từ việc thực hiện trách
nhiệm xã hội mang lại nên đã thực hiện chưa nghiêm túc trách nhiệm xã
hội của mình. Điều đó thể hiện ở các hành vi gian lận trong kinh doanh,
sản xuất hàng kém chất lượng, cố ý gây ô nhiễm môi trường để tối đa hóa
lợi nhuận...
Đối với các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), bên cạnh những thành công
kể trên, trách nhiệm xã hội trong thời gian qua cũng bộc lộ nhiều bất
cập, nổi bật là: Chất lượng chưa tương xứng với số lượng; các dự án FDI
có công nghệ trung bình so với thế giới (80%), một phần đáng kể có công
nghệ lạc hậu (14%) và chỉ có 6% có công nghệ cao. Ngay cả trong trường
hợp như Nokia, Samsung... các công đoạn sản xuất tại Việt Nam phần lớn
đều ở công đoạn cuối, tức là chỉ lắp ráp, không đòi hỏi lao động chất
lượng cao và công nghệ tiên tiến. Ngoài ra, do nhiều dự án FDI đưa vào
dây chuyền công nghệ lạc hậu, chưa tự giác trong việc tuân thủ quy định
về bảo vệ môi trường, nên có tác động tiêu cực đến môi trường như: Công
ty Vedan tại Đồng Nai, Công ty Tung Kuang tại Hải Dương, Công ty Long
Tech tại Bắc Ninh và mới đây là Công ty Fomosa Đài Loan tại Hà Tĩnh...
Đồng thời, việc các DN FDI khai thác bừa bãi thiếu quy hoạch các tài
nguyên khoáng sản từ dầu khí đến than đá, quặng… đã và đang gây tổn thất
lớn nguồn tài nguyên không tái tạo được của Việt Nam.
Nhiều dự án FDI vẫn xảy ra tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội, tranh
chấp lao động, với hàng ngàn cuộc đình công đòi quyền lợi về lương,
thưởng, thời gian làm thêm, nghỉ giữa giờ và các chế độ phúc lợi khác
giữa những lao động và người sử dụng lao động... Đặc biệt, tình trạng
lao động trong khu vực DN FDI bị thất nghiệp sau tuổi 35 đang trở thành
xu hướng gia tăng đáng báo động về trách nhiệm xã hội của DN đối với lao
động và áp lực an sinh xã hội từ khu vực DN FDI…
GIẢI PHÁP NÂNG CAO THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP
Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực hiện
trách nhiệm xã hội của DN trong thời gian qua, để nâng cao ý thức thực
hiện trách nhiệm xã hội của DN Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, bài
viết gợi mở một số nhóm giải pháp sau:
Về phía doanh nghiệp
Một là, thành lập đội chuyên
trách về trách nhiệm xã hội. Thực tế thường gặp ở các công ty Việt Nam
là các hoạt động trách nhiệm xã hội DN thường không được thực hiện một
cách nhất quán và thường xuyên. Lý do căn bản là trong DN không có đơn
vị chuyên trách về trách nhiệm xã hội DN. Vì vậy, để nâng cao hiện trách
nhiệm xã hội của DN, cần thành lập đội chuyên trách về trách nhiệm xã
hội DN.
Theo đó, đội chuyên trách này cần có quy mô và thành phần phù hợp với cơ
cấu tổ chức của DN, bao gồm các bộ phận liên đới đến vấn đề trọng tâm
về trách nhiệm xã hội DN đã lựa chọn. Mặt khác, trong đội chuyên trách,
các thành viên cũng cần có hiểu biết chung về trách nhiệm xã hội DN, có
thể thuê thêm chuyên gia bên ngoài tham gia với tư cách là thành viên
kiêm nhiệm để tư vấn cho đội chuyên trách và công ty về những vấn đề
trách nhiệm xã hội DN được coi là điểm nóng cần giải quyết ngay.
Việc thành lập đội chuyên trách có thể
phát sinh chi phí cho DN nhưng đây là việc làm cần thiết đối với DN khi ở
giai đoạn bắt đầu thực thi trách nhiệm xã hội DN, khi mà những nguyên
tắc, quy chuẩn về trách nhiệm xã hội DN chưa được người lao động hiểu
rõ, khi mà những hoạt động trách nhiệm xã hội DN chưa được thực hiện một
cách có hệ thống. Sau này, khi các hoạt động của công ty đã đi vào nề
nếp, khi người lao động đã có nhận thức tốt và chủ động thực thi các
hoạt động trách nhiệm xã hội DN thì các thành viên của đội chuyên trách
có thể trở về hoạt động tại các bộ phận của mình.
Hai là, lập kế hoạch chiến lược về trách nhiệm xã hội DN. Trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, DN nên lập kế hoạch chiến lược về trách
nhiệm xã hội DN, vì chỉ khi có chiến lược, DN mới xác định rõ mục tiêu
cũng như con đường để thực hiện trách nhiệm xã hội một cách chủ động và
mang tính lâu dài. Trong công tác lập kế hoạch chiến lược, ban quản trị
công ty với sự giúp sức của đội chuyên trách về trách nhiệm xã hội có
thể thực hiện một số bước sau: Xác định tầm nhìn về trách nhiệm xã hội
của DN; Phân tích thực trạng trách nhiệm xã hội DN và các yếu tố môi
trường tác động để xác định thứ tự ưu tiên của các vấn đề liên quan đến
trách nhiệm xã hội DN, những điều kiện về nguồn lực dành cho việc thực
hiện trách nhiệm xã hội DN; Đề xuất một số giải pháp tổng thể để thực
hiện trách nhiệm xã hội DN.
Về phía các cơ quan quản lý nhà nước
Tăng cường tuyên truyền đối với các DN
về nghĩa vụ và lợi ích của việc thực hiện trách nhiệm xã hội DN. Việc
tuyên truyền có thể được thực hiện thông qua nhiều hình thức, như qua
các phương tiện thông tin đại chúng, các đợt tập huấn bắt buộc cho lãnh
đạo các DN, các hội nghị, hội thảo khoa học... Hơn nữa, việc tuyên
truyền này cần được mở rộng đến cả các cơ quan quản lý nhà nước có liên
quan, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách vĩ mô... Đồng thời,
nội dung của việc thực hiện trách nhiệm xã hội DN, các thông tin cập
nhật về các bộ quy tắc ứng xử, các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội liên
quan phải được phổ biến đầy đủ và rõ ràng đến các DN.
Phân định rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và các
chủ thể liên quan trong việc hoạch định chính sách, thông tin, tuyên
truyền, kiểm tra, xử lý sai phạm của các DN đối với các vấn đề liên quan
đến trách nhiệm xã hội DN nói chung, trách nhiệm đối với thị trường,
người tiêu dùng và việc bảo vệ môi trường nói riêng. Sự phối hợp giữa
các cơ quan quản lý nhà nước với các chủ thể khác có liên quan cũng đóng
vai trò hết sức quan trọng, bởi trách nhiệm xã hội của DN chỉ được coi
trọng và trở nên cấp thiết khi có cơ chế giám sát đồng bộ, có sự kết hợp
giữa chính quyền và các lực lượng dân sự trong xã hội, đặc biệt là các
hiệp hội, tổ chức phi chính phủ và các phương tiện truyền thông, báo
chí.
Bên cạnh đó, cần ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ các DN
thực hiện trách nhiệm xã hội. Cần có các biện pháp đủ mạnh để xử lý vi
phạm của các DN trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội, nhất là đối với
các DN sản xuất các mặt hàng nông sản, thực phẩm không bảo đảm chất
lượng, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng và
gây ô nhiễm môi trường; Đồng thời, cần tăng cường các hình thức khuyến
khích, động viên, khen thưởng đối với các DN tự giác và thực hiện tốt
trách nhiệm xã hội, như giải thưởng trách nhiệm xã hội, thương hiệu
"xanh", cấp chứng chỉ cho các DN bảo đảm các yêu cầu liên quan đến các
tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội trong các bộ quy tắc ứng xử được áp
dụng.../.
TS. Hoàng Ngọc Hải – Học viện Chính trị Khu vực 1
(Theo Tạp chí Tài Chính)
-------------------------------
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Một số vấn đề lý luận, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam”, Tạp chí Quản lý kinh tế, số 4/2008;
2. Nguyễn Đình Tài (2009), "Tăng cường trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng và đối với môi trường ở
Việt Nam vì sự phát triển bền vững”- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ;
3. Trần Anh Phương, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thực tiễn vận dụng ở Việt Nam hiện nay, Tap chí Triết học, số 8 (219), tháng 8/2009;
4. Phạm Nguyễn Vinh (2018), Hiểu đầy đủ về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 6/2019