VẪN CÒN NHỮNG BẤT CẬP
Tuyên
truyền là công cụ sắc bén trong sự nghiệp xây dựng Đảng và phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Đây cũng là nhiệm vụ quan trọng
trong việc triển khai thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế
biển Việt Nam.
Trong
Nghị quyết 36, Ban Chấp hành Trung ương Đảng giao “Ban Tuyên giáo Trung
ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức việc học tập,
quán triệt, tuyên truyền thực hiện Nghị quyết; đẩy mạnh tuyên truyền,
nâng cao nhận thức trong nhân dân về vị trí, vai trò của biển và Chiến
lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam”. Việc hướng dẫn tuyên
truyền, phổ biến, quán triệt thực hiện Nghị quyết đến các cấp ủy đảng,
tổ chức đoàn thể và nhân dân cần được kịp thời, bám sát bối cảnh trong
nước và tình hình thế giới.
Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” cho thấy, bên
cạnh những kết quả đạt được, công tác tuyên truyền bộc lộ nhiều hạn
chế, thiếu sót cần tập trung khắc phục trong giai đoạn thực hiện Chiến
lược mới.
Thứ nhất,
việc phối hợp triển khai giữa các cơ quan trong tổ chức tuyên truyền,
giáo dục và phổ biến thông tin về biển, đảo, nhất là giữa Trung ương và
địa phương, có lúc, có nơi chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao, không thực
sự thường xuyên, liên tục, bị chi phối bởi các nội dung, hoạt động mang
tính thời điểm, ngắn hạn; việc đánh giá, sơ kết, tổng kết công tác tuyên
truyền riêng về các nội dung này còn hạn chế. Một số cấp ủy, chính
quyền, đoàn thể các cấp chưa có kế hoạch, chương trình hành động cụ thể
để tổ chức thực hiện Nghị quyết.
Thứ hai,
nội dung và hình thức tuyên truyền chưa thực sự phát huy hiệu quả ở
những khu vực đặc thù như biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn và các huyện đảo. Nhiều đối tượng như đồng bào các dân tộc
thiểu số và ngư dân có thời gian lao động trên biển dài ngày hiện vẫn
khó tiếp cận với thông tin về biển, đảo.
Thứ ba,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và chính trị của một số nhà báo, đội ngũ
chuyên trách làm công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về biển, đảo
chưa đáp ứng tốt yêu cầu của nhiệm vụ, đặc biệt là sự hiểu biết về các
vấn đề pháp lý trong nước và quốc tế liên quan đến biển, đảo. Bên cạnh
đó, những biểu hiện căng thẳng, phức tạp trên khu vực Biển Đông là vấn
đề nhạy cảm đối với các mối quan hệ đối ngoại; vẫn còn có trường hợp cơ quan thông tấn, báo chí đưa thông tin thiếu kiểm chứng.
Thứ tư,
số lượng ấn phẩm liên quan đến các nghiên cứu chuyên sâu, các bài bình
luận, phân tích sắc sảo, thực sự thuyết phục về các vấn đề biển, đảo
chưa nhiều, chưa tác động được một cách thường xuyên, liên tục và hiệu
quả ra thế giới.
Thứ năm, sự phát triển của internet
thực sự đã làm nên một cuộc cách mạng về thông tin trên toàn cầu. Tuy
nhiên, công tác tuyên truyền về biển, đảo chưa tận dụng tốt các phương
thức truyền thông hiện đại để truyền tải một cách nhanh chóng những
thông điệp đúng đắn, tích cực; đồng thời, hạn chế, đấu tranh với những
thông tin sai trái về các vấn đề nhạy cảm liên quan đến chủ quyền lãnh
thổ trên biển.
Thứ sáu,
thiếu cơ chế xử lý các vấn đề đột xuất, phức tạp nảy sinh dẫn đến tình
trạng có lúc, có nơi lúng túng trong giải quyết sự việc và gây bức xúc
trong dư luận. Một số trường hợp, thông tin cung cấp cho báo chí chưa
kịp thời, định hướng tuyên truyền bất cập so với thực tiễn. Công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật về biển, đảo còn phân tán,
thiếu trọng tâm, trọng điểm.
ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
Trong
thời gian tới, dự báo tình hình quốc tế tiếp tục có nhiều diễn biến
phức tạp, tranh chấp chủ quyền ranh giới biển và sự bất đồng giữa các
nước tại Biển Đông tiếp tục ảnh hưởng đến môi trường hòa bình, ổn định
và phát triển của khu vực và nước ta. Ô nhiễm môi trường xuyên biên
giới, biến đổi khí hậu, nước biển dâng đã trở thành vấn đề cấp bách toàn
cầu. Phát triển bền vững, hài hòa
giữa phát triển với bảo tồn biển trở thành xu thế chủ đạo. Toàn cầu hóa
và cách mạng khoa học - công nghệ tạo ra nhiều cơ hội và thách thức.
Ở trong nước, ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững; thích ứng với
biến đổi khí hậu, nước biển dâng; an ninh, trật tự, an toàn xã hội vẫn
là những khó khăn, thách thức lớn đòi hỏi công tác truyền thông cần định
hướng, có bước đi đúng đắn, nâng cao nhận thức, tạo niềm tin và sự đồng
thuận của toàn hệ thống chính trị, nhân dân và đồng bào ta ở nước
ngoài. Vì thế, cần xác định rõ những yêu cầu sau đây:
Một là, tuyên truyền về biển, đảo cho cả hệ thống chính trị, các cấp ủy đảng,
nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài; nâng cao nhận thức về sự cần
thiết phải phối hợp, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về biển, đảo trong
diễn biến tình hình trên Biển Đông. Bảo đảm sự chỉ đạo, phối hợp chặt
chẽ, thống nhất trong toàn lực lượng làm công tác tuyên truyền biển,
đảo. Huy động được mọi nguồn lực
và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và cộng đồng xã
hội tham gia vào công tác tuyên truyền.
Hai là, cung cấp thông tin có định hướng, phù hợp với từng nhóm đối tượng, đặc thù các vùng miền... và phù hợp với từng thời điểm; thực hiện tuyên truyền có trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng nhanh chóng, hiệu quả yêu cầu của từng giai đoạn cụ thể; tiếp
tục quan tâm đến việc giáo dục ý thức thực thi pháp luật trên biển; đấu
tranh chống các hành vi sai trái, vi phạm pháp luật Việt Nam và pháp
luật quốc tế trên biển; các hoạt động khai thác trái phép, vi phạm chủ
quyền quốc gia, ảnh hưởng đến quan hệ các nước trong khu vực.
Tập
trung thông tin về đường lối, chủ trương, quan điểm, chính sách, pháp
luật của Đảng, Nhà nước về các vấn đề liên quan đến biển, đảo và nội
dung của Nghị quyết 36; vị thế, tiềm năng của biển, đảo trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; những cơ sở pháp lý, chứng cứ lịch sử và
thực tiễn khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của
nước ta đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; ý chí, quyết tâm của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta về giải quyết, bảo vệ các quyền lợi
hợp pháp của nước ta trên biển.
Công
tác tuyên truyền biển, đảo phải coi trọng chất lượng và phù hợp với các
đối tượng khác nhau, đặc trưng của từng vùng, miền; phát huy vai trò
của các chức sắc tôn giáo, người có uy tín trong cộng đồng, già làng,
trưởng bản, đoàn viên, hội viên. Kịp thời có định hướng tuyên truyền
trong bối cảnh tình hình cụ thể, khi có phức tạp nảy sinh trên biển, đảo
và ở Biển Đông.
Ba là,
nội dung tuyên truyền về biển đảo phải bám sát chủ trương, đường lối
của Đảng về vấn đề biên giới, lãnh thổ, về công tác tuyên truyền biển,
đảo; cụ thể hóa được các quan điểm, mục đích, định hướng, yêu cầu, nhiệm
vụ và giải pháp trong Nghị quyết của Đảng về Chiến lược phát triển bền
vững kinh tế biển Việt Nam; phù hợp với bối cảnh tình hình thế giới, khu
vực và tình hình kinh tế - chính trị - quốc phòng - an ninh trong nước.
Nội
dung tuyên truyền về biển, đảo phải đa dạng, phong phú, gắn trực tiếp
với nội dung của Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, đồng thời
bám sát tình hình thực tế, nhất là các diễn biến mới trên Biển Đông. Xây
dựng các nội dung về các ngành kinh tế biển nhằm thu hút mạnh hơn các
nguồn lực đầu tư, tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ chủ
quyền biển, đảo; cổ vũ, động viên những tổ chức, cá nhân điển hình tiên
tiến trong phát triển kinh tế biển, đảo; các hoạt động quản lý nhà nước,
bảo vệ môi trường, bảo tồn biển; vấn đề biến đổi khí hậu và nước biển
dâng; vấn đề tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ trên biển; chính sách hậu phương
quân đội; các hoạt động thăm hỏi động viên, chia sẻ đối với các cán bộ,
chiến sỹ và nhân dân đang công tác, làm việc, sinh sống trên biển và các
đảo xa.
|
Bốn là,
các hoạt động tuyên truyền về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế
biển cần được tiến hành chủ động, tích cực, thường xuyên, liên tục. Coi
trọng sự nhạy bén, chính xác trong việc cung cấp thông tin kịp thời,
chính thống, có hiệu quả giữa các lực lượng tuyên truyền của cả hệ thống
chính trị trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm và các tình huống đột
xuất; coi trọng việc đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền; lồng
ghép công tác tuyên truyền biển, đảo với việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, chương trình, kế hoạch của các cơ quan, đơn vị, địa phương
trên địa bàn cả nước.
Năm là, đa dạng hóa hình thức, phương pháp tuyên truyền, phát huy thế mạnh của hình thức tuyên truyền miệng, đặc biệt là đưa
các nội dung tuyên truyền biển, đảo vào các hội nghị báo cáo viên từ
Trung ương đến các địa phương nhằm cung cấp, cập nhật thông tin, kiến
thức về biển, đảo.
Phát
huy thế mạnh của khoa học và công nghệ, các phương tiện truyền thông
hiện đại, đặc biệt là internet, phát thanh, truyền hình, báo điện tử và
mạng xã hội nhằm tác động sâu rộng, kịp thời và hiệu quả đến cộng đồng,
dư luận trong và ngoài nước.
Sáu là, tăng
cường công tác kiểm tra, đánh giá, sơ kết, tổng kết việc thực hiện
nhiệm vụ tuyên truyền gắn với các mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ, giải
pháp của Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam.
Bảy là, xây
dựng hệ thống tài liệu tuyên truyền biển, đảo thống nhất về nội dung,
đa dạng về hình thức, phù hợp với yêu cầu của nhiều loại đối tượng khác
nhau; nghiên cứu, tổng hợp các nội dung về cơ sở pháp lý, căn cứ lịch sử
và thực tiễn trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; xây dựng các phương án tuyên truyền phù
hợp với các tình huống phức tạp có thể xảy ra trên Biển Đông và trong
mối quan hệ với các nước láng giềng. Biên
soạn, xuất bản, phát hành các tài liệu tuyên truyền cần kịp thời, có
giá trị, tạo hiệu ứng tốt; xây dựng các tài liệu tuyên truyền nội bộ để
phổ biến tới cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, định hướng dư
luận.
Tám là, đẩy
mạnh thông tin, tuyên truyền đối ngoại về biển, đảo nhằm giữ gìn, vun
đắp mối quan hệ hữu nghị, hòa bình, hợp tác, cùng phát triển với các
quốc gia trong khu vực, trên thế giới; tăng cường sự hiểu biết, quan
tâm, ủng hộ, đoàn kết của cộng đồng quốc tế đối với cách thức giải quyết
các vấn đề phức tạp trên Biển Đông cũng như quá trình phát triển và hội
nhập quốc tế của Việt Nam; đấu tranh, ngăn chặn kịp thời, hiệu quả
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch xoay quanh vấn đề chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc, trao
đổi, đối thoại với các cá nhân, tổ chức có nhận thức chưa đúng, chưa
đầy đủ hoặc sai lệch quan điểm, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về biển, đảo./.
TS. Tạ Đình Thi
Tổng Cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam