PHẢI THAY ĐỔI QUAN ĐIỂM VỀ DẠY LỊCH SỬ TRONG XÃ HỘI
Một
dân tộc sẽ là con số 0 nếu mất đi lịch sử của mình. Chính lịch sử mang
trong nó vận mệnh lớn lao, những chất chứa cả mấy nghìn năm để làm điểm
tựa cho dân tộc ta vững bước đi tới tương lai. Môn học lịch sử không chỉ
dạy sự kiện, đó là môn khoa học nuôi dưỡng niềm tự hào dân tộc, tình
yêu quê hương đất nước. Tìm về lịch sử, chúng ta gặp lại tổ tiên ta,
những con người anh hùng “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” đã gìn giữ, xây dựng
Tổ quốc, từ đó, thấy mình cần làm những việc xứng đáng với tiền nhân.
Ước mơ chúng ta vẫn muốn con cháu ta tốt hơn, đẹp hơn cha ông của mình.
Vậy con đường nào dẫn lối?
Lịch
sử bản thân nó đã là một môn học hay và hấp dẫn. Vì trong đó có ân oán
tình thù, có mưa rơi máu chảy, có âm mưu tranh đoạt, có chiến tranh vệ
quốc... Tất cả cùng nhau hòa quyện, vừa khoa học vừa ly kỳ như một bộ
phim làm cho người ta thích. Nhưng chúng ta đối xử thế nào để khiến cho
học sinh Việt Nam lại không thích bộ phim ấy? Phải chăng khi ép các em
phải “học thuộc” các sự kiện biên niên dẫn đến tâm lý “sợ” học lịch sử
như một môn học khô khan và “hãi hùng”.
Quan
điểm cần thay đổi rõ ràng nhất: lịch sử không đơn thuần là một môn học,
càng không nên là một môn học thuộc lòng, phải hiểu lịch sử là một giá
trị quý báu của dân tộc để kể, để trao truyền, dặn dò thì ta sẽ nghiêm
túc với lịch sử. Người làm giáo dục cần thoát ra khỏi suy nghĩ “Môn lịch
sử”, để bước cao lên mà dạy cho các em biết về “Giá trị lịch sử”, thì
đấy là lúc học sinh mới tìm về được cái chân chính của hai chữ Lịch sử.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ DẠY "GIÁ TRỊ LỊCH SỬ"
Chúng
ta đang thiếu sự liên kết của lịch sử với cuộc sống, cần đưa lịch sử
vào cuộc sống để gạt đi nỗi thờ ơ của học sinh. Tại sao không phải Hai
Bà Trưng, Bà Triệu hay Mai Thúc Loan, mà chính Ngô Quyền mới là người
chấm dứt một nghìn năm Bắc Thuộc? Đơn giản là vì những vị anh hùng khác
không có được nền tảng chính trị như Ngô Quyền. Cần làm cho học sinh
hiểu rõ, trước khi giành chiến thắng trận tiền ở sông Bạch Đằng, chấm
dứt một nghìn năm Bắc thuộc, Ngô Quyền đã được dòng họ Khúc mà cụ thể là
Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo… đặt nền móng tự chủ như thế nào? Mở rộng ra,
bài học ấy có thể làm những “chỉ dẫn” cho học tập và cuộc sống. Giả dụ
như học dở Toán, Lý, Hóa, nếu mất gốc thì phải học lại từ căn bản. Trong
cuộc sống, muốn cất cánh bay cao, trước tiên phải biết cội nguồn, gốc
rễ, nền tảng của mình từ đâu, lợi thế, điểm tựa của mình là gì... Câu
chuyện về khởi nghĩa Lam Sơn cũng là một bài học quý. Lê Lợi khi dựng cờ
khởi nghĩa ở Thanh Hóa thường tiến lên phía trước để sớm đến Thăng
Long. Kết quả, ngài thất bại liên tục. Nhưng sau nghe lời Nguyễn Chích,
lùi lại về Nghệ An, thế là lật ngược thế cờ, mở ra các chiến thắng cho
đến ngày độc lập. Bài học được đưa ra là “Lùi một bước biển rộng trời
cao”. Sống trên đời cũng vậy, biết lùi đôi khi tốt hơn nhiều, lùi để
tiến lại mạnh hơn.
Nếu chúng ta dạy như thế, mỗi câu chuyện lịch sử là một bài học cho cuộc sống thì thử hỏi học sinh sao không yêu lịch sử?
Có
một lối dạy và học cũ. Đó là giáo viên dạy lịch sử nói “Các em, lật vở
ra, kiểm tra bài cũ”. Học sinh học thuộc trong trí nhớ ngắn hạn, trả bài
và sau đó là quên. Các đề thi, các bài kiểm tra luôn là kể diễn biến,
kết quả, ý nghĩa của một trận đánh. Đấy chính là cái sai lầm lớn nhất
trong việc dạy sử ở trường học.
Tất cả học sinh phổ thông ở ta đều thiếu một điều rất quan trọng: tư duy lịch sử.
Giáo dục lịch sử không nên quên rằng trong lịch sử có đầy đủ phương
pháp luận, phương pháp nghiên cứu khoa học và các loại hình tư duy: tổng
hợp, phân tích, tranh luận và phản biện. Đề thi lịch sử của Vương Quốc
Anh có câu sau: “Nếu bạn là Napoleon, bạn sẽ làm gì để không thua trận
Waterloo?”. Còn chúng ta có thể sẽ là câu hỏi? “Trận Waterloo, công tước
Wellington đã loại khỏi vòng chiến mấy nghìn quân Pháp?” Thay vì yêu
cầu học sinh thống kê thành tích của một vị tướng, nếu ta hỏi: “Theo em,
10 vị tướng tài năng nhất của nhân loại là những ai?” thì chắc chắn học
sinh sẽ thích thú tìm câu trả lời hơn.
Quá
thiếu câu chuyện trong giảng dạy cũng là một vấn đề trong giáo dục lịch
sử hiện nay. Trong khi chính các câu chuyện mới là điều khiến học sinh
yêu thích môn lịch sử. Hãy kể các câu chuyện và tạo ra hứng thú cho học
sinh, hơn là đi thống kê các báo cáo về quân số thiệt hại. Xin dẫn lại
làm ví dụ một câu chuyện lịch sử như sau: “Năm 1442, vua Lê Thái Tông
băng hà trong vụ án Lệ Chi Viên. Nguyễn Trãi và gia tộc bị “tru di tam
tộc”. Trước khi mất, Lê Thái Tông sinh ra 4 người con, đấy là Nghi Dân,
Bang Cơ, Khắc Xương và Tư Thành. Khi 4 người con ấy đi vào cuộc tranh
thiên hạ, đã tạo nên cuộc giành ngôi vương thảm khốc nhất lịch sử phong
kiến Việt Nam: Bang Cơ lên ngôi, Nghi Dân giết, Tư Thành lên ngôi, Khắc
Xương tự sát. Đó là câu chuyện về “Tứ vương đoạt đích” của Việt Nam”.
Đọc lên những dòng ấy, có phải chúng ta “gai cả người” lên? Nhưng có mấy
ai dành thời gian kể cho các em nghe các chuyện này? Dù cho chính các
câu chuyện như thế mới là con đường dẫn các em tới say mê, chứ không
phải là bắt các em lên kiểm tra bài cũ và kể ra ngày sinh tháng đẻ của
Lê Thái Tông hay Lê Thánh Tông? Lịch sử là câu chuyện, không phải là con
số thống kê. Chúng ta đang dạy sử theo cách bắt con em học thuộc sử như
học công thức vật lý. Điều này không khác gì chuyện bạn đi học thuộc
công thức tính động năng dài tới 4 hàng cả.
Cuối
cùng, thiếu thực địa là một vấn đề. Một đất nước có bề dày lịch sử cũng
như rất nhiều di tích lịch sử, chứng tích chiến tranh như nước ta, mà
lại thiếu thực địa là quá vô lý. Những năm tháng phổ thông ở Quảng Bình,
bên cạnh trường tôi học là di tích Lũy Thầy, biểu trưng cho thời kỳ
Trịnh - Nguyễn phân tranh. Tôi đã chứng kiến phế tích Tam Tòa “trơ gan
cùng tuế nguyệt”, những địa điểm cảm khái người thập phương, trên đó
khắc rõ hai chữ lịch sử. Nhưng không ai chỉ cho chúng tôi để
biết, để nhận thức đó là lịch sử. Chúng tôi thiếu vắng những tiết học
ngoại khóa được đến viện bảo tàng hay những lăng mộ, đền đài, nơi cất
giữ linh khí của tiền nhân. Xin hỏi, nếu vậy, hậu nhân bao kẻ cảm được
hồn thiêng sông núi?
TRẬN ĐÁNH KHÔNG CHỈ RIÊNG CỦA NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Người
trẻ cũng cần phải nhớ rằng, các môn học không chỉ là cây cầu dẫn đường
các em vào cánh cửa đại học, cao đẳng. Khi ra đời, những môn học đọng
lại chính là phương pháp luận, là tư duy. Trong đó, lịch sử là môn học
sẽ vẫn ở lại, dặn dò cho ta những bài học và những chiêm nghiệm sống,
gián tiếp cho các em những kỹ năng mềm trong mọi hoạt động và mối quan
hệ. Lịch sử là sứ giả của quá khứ đến với hiện tại và dặn dò về tương
lai. Người hiểu về lịch sử là hiểu được quy luật vận động cuộc sống.
Trong một xã hội công nghệ lên ngôi, thì kỹ năng mềm là ưu thế khiến ta
trở nên khác biệt một cách độc đáo. Khi ra đời, chính sự hiểu biết về
lịch sử trong các cuộc nói chuyện với đối tác, những lần luận đàm, sẽ
giúp ta có chiều sâu văn hóa và nhận được sự tôn trọng.
Trách
nhiệm của người nghiên cứu là đi sâu khai phá các vấn đề lịch sử, dịch
thuật, khảo cổ. Nhưng cũng cần ai đó có trách nhiệm đem lịch sử vào
trong cuộc sống. Nhiệm vụ đó cần có sự vào cuộc của khắp cả xã hội, từ
những người làm sách, làm báo, game show, đến nền âm nhạc, điện ảnh...
nước nhà. Đó mới là những lối đi gần gũi nhất, thiết thực nhất với người
trẻ. Hãy nhìn cách mà nước láng giềng Trung Quốc đã làm phim với Tam
Quốc Diễn Nghĩa, Hán Sở tranh hùng, Tùy Đường diễn nghĩa, Xuân Thu Chiến
Quốc… Sự hấp dẫn của các bộ phim này khiến người trẻ dù thờ ơ đến đâu
cũng sẽ quan tâm đến lịch sử. Lịch sử Việt Nam ta có cả một kho tàng
những câu chuyện phong phú, sinh động, thú vị và hấp dẫn, là nguồn
nguyên liệu, chất liệu dồi dào để làm nên những bộ phim kinh điển. Nếu
bỏ qua không khai thác thì thật là đáng tiếc.
Hãy
cho các em được sống cùng với lịch sử, tư duy cùng lịch sử, và các em
sẽ tự nhiên yêu lịch sử mà không cần ai gượng ép. Tôi có niềm tin rằng,
trong lòng mỗi người trẻ có tình yêu dành cho môn Lịch sử, nhưng đã
không được vun vén đúng cách.
|
Trong
bối cảnh internet, mạng xã hội phát triển như hiện nay, người trẻ càng
có thêm nhiều cơ hội để tiếp cận với thông tin, nguồn dữ liệu về mọi
khoa học, trong đó có lịch sử. Và đó cũng là cơ hội để sử học đến với
công chúng nói chung, người trẻ nói riêng bằng nhiều con đường, nhiều
kênh khác nhau. Nhiều trang Fanpage đã được lập ra thu hút hàng nghìn
thành viên với những mục đích tích cực, lan tỏa tình yêu với lịch sử,
truyền thụ kiến thức lịch sử. Những người yêu thích tìm hiểu văn hóa
truyền thống Đại Việt có thể tham gia trang Đại Việt Cổ Phong hoặc Hoa
Văn Đại Việt, thích các bộ phim diễn họa lịch sử thì không thể không đến
với Việt Sử Kiêu Hùng, thích nghe các câu chuyện lịch sử thì có thể
cùng chia sẻ ở các fanpage như The Xfile of History, hoặc người trẻ cùng
gặp gỡ kể sử cho nhau qua Sử Talk, trên youtube... Những người hứng
thú với lịch sử thế giới, lịch sử chiến tranh thì có “Hội những người
thích tìm hiểu về thế chiến thứ 2” hoặc “Tìm hiểu về chiến tranh Việt
Nam (Viet Nam War)”. Thậm chí, mới mẻ hơn nữa là đến với dự án trò chơi
thẻ bài huyền sử Việt Nam là Sử Hộ Vương. Chưa kể còn rất nhiều hội,
nhóm trên mạng xã hội tranh luận về lịch sử. Dẫu thế, vẫn phải nhấn mạnh
rằng môi trường mạng xã hội dù rằng dễ lan tỏa nhưng cũng đầy rủi ro về
thông tin thật - giả. Người đọc cần có một cách tiếp cận khoa học, trái
tim “nóng” để say mê, và cái đầu “lạnh” để phân biệt đúng - sai. Để
những kênh lan tỏa tình yêu lịch sử này phát huy được ưu thế, rất cần có
những người có kiến thức tốt trong cả giới hàn lâm, khoa học lịch sử
lẫn giới “sử học bình dân” tham gia cùng người trẻ để chia sẻ góc nhìn,
cung cấp thông tin, để định hướng, để truyền cảm hứng.
Vậy
nên mới nói, để học sinh yêu lịch sử, hẳn nhiên không phải là “trận
đánh” của riêng Bộ Giáo dục và Đào tạo mà phải là trách nhiệm và nỗ lực,
ý thức từ mỗi một người yêu sử, từ giới hàn lâm học thuật cho đến giới
“bình dân sử học” cũng như mỗi cơ quan chức năng có liên quan làm cây
cầu đưa lịch sử đi cùng đời sống./.
Dũng Phan là tác giả của cuốn “Sử Việt - 12 khúc tráng ca”
được nhiều người trẻ yêu thích. Năm 2017, khi cuốn sách ra mắt, đã có
hàng ngàn bạn trẻ tham gia sự kiện ra mắt sách ở cả ba miền Bắc - Trung -
Nam, và 5.000 cuốn sách Sử đã bán hết chỉ sau 2 ngày.
|
Dũng Phan
______________________________
(Bài đăng trên Tạp chí Tuyên giáo số 8/2019)