VI PHẠM QUYỀN CHỦ QUYỀN VÀ QUYỀN TÀI PHÁN CỦA VIỆT NAM
Ngày 19/7/2019, trả
lời câu hỏi của phóng viên liên quan đến diễn biến ở khu vực Biển Đông,
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã nhấn mạnh:
“Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 08 của Trung Quốc đã
có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu
vực phía Nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được
xác định theo đúng các quy định của UNCLOS 1982 mà Việt Nam và Trung
Quốc đều là thành viên. Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung
Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu
chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển
Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan
hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực”.
Nội
dung được thể hiện trong tuyên bố nói trên là nghiêm túc, phản ánh đúng
sự thật khách quan và được trình bày một cách rõ ràng, chặt chẽ.
Qua nghiên cứu, đối chiếu với những quy định của UNCLOS 1982, Luật Biển
Việt Nam năm 2012, cũng như các tiền lệ pháp lý, đặc biệt là Phán quyết
của Tòa trọng tài quốc tế The Hague năm 2016, khẳng định trên của Người
phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam có căn cứ pháp lý rõ ràng. Bởi vì, khu
vực phía Nam Biển Đông được đề cập là khu vực bãi cạn Tư Chính, Vũng
Mây, Quế Đường, Huyền Trân… ở cách đường cơ sở thẳng dùng để tính chiều
rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam công bố năm 1982 dưới 200 hải lý,
thậm chí có khu vực ở cách đường bờ biển ven bờ lục địa đối diện cũng
xấp xỉ khoảng trên dưới 200 hải lý. Chúng tôi chỉ nhấn mạnh đến khái
niệm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý ở khu vực này;
bởi vì còn có ranh giới ngoài của thềm lục địa có thể mở rộng ra đến 350
hải lý, nếu có hồ sơ chứng minh bờ ngoài của thềm lục địa kéo dài ra
ngoài giới hạn 200 hải lý và được Tiểu ban ranh giới thềm lục địa của
Liên hợp quốc chấp nhận.
Chủ quyền quốc gia trên biển
Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền của mình một cách
tuyệt đối, đầy đủ, toàn vẹn ở trong vùng nội thủy và thực hiện chủ quyền
một cách đầy đủ, toàn vẹn ở trong lãnh hải. Bởi vì, nội thủy được coi
là bộ phận đất liền như ao hồ, sông suối, các vùng nước nằm trong đất
liền. Lãnh hải cũng được coi là lãnh thổ biển của quốc gia ven biển. Tuy
nhiên, tàu thuyền của các quốc gia khác được quyền “đi qua vô hại”
trong lãnh hải của quốc gia ven biển, với những quy định kiểm soát chặt
chẽ của quốc gia ven biển theo quy định của UNCLOS 1982. Vì vậy, chủ
quyền của quốc gia ven biển được thực hiện ở trong lãnh hải của mình là
“đầy đủ và toàn vẹn”, chứ không “tuyệt đối” như ở trong nội thủy.
Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên
biển. Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải, cũng như
đến đáy và lòng đất dưới đáy của lãnh hải. Mọi hoạt động của tự nhiên
nhân hay pháp nhân của quốc gia khác, cũng như các phương tiện hoạt động
trên biển của họ ở trong nội thủy, lãnh hải của quốc gia ven biển, mà
không tuân thủ luật pháp của quốc gia ven biển, cũng như luật pháp quốc
tế hiện hành, đều bị coi là hành động xâm phạm biên giới, lãnh thổ biển
của quốc gia ven biển; quốc gia ven biển có quyền sử dụng mọi biện pháp,
kể cả biện pháp quân sự để bảo vệ chủ quyền quốc gia trong phạm vi nội
thủy và lãnh hải được xác lập theo đúng qui định của UNCLOS 1982.
|
Vì
vậy, việc Việt Nam tiến hành thăm dò khai thác dầu khí, xây dựng các
cụm dịch vụ mang tên DK là phù hợp với các quy định về quyền và nghĩa vụ
của quốc gia ven biển theo Điều 60 (UNCLOS 1982) quy định về các đảo
nhân tạo, thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế và Điều 80
quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở thềm lục địa.
Việt Nam có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây
dựng, khai thác và sử dụng đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình dùng
vào mục đích được trù định ở Điều 56 của UNCLOS 1982 hoặc các mục đích
kinh tế khác trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việt Nam
tuyên bố không cố ý biến các bãi ngầm ở thềm lục địa phía Nam thành đảo
nổi và không ghép chúng vào quần đảo Trường Sa, đồng thời bác bỏ sự gán
ghép này.
Trong khi đó, Trung Quốc xem bãi Tư Chính là một phần của quần đảo Nam
Sa thuộc “chủ quyền bất khả xâm phạm” của Trung Quốc. Lập luận ngụy biện
này hoàn toàn trái ngược với những quy định của UNCLOS 1982. Quan trọng
hơn, phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế The Hague năm 2016 cũng đã
bác bỏ lập luận này. Theo đó, các bãi cạn Vành Khăn, Cỏ Mây, Cỏ Rong…
là những rạn san hô, bãi cát ngầm ngập hoàn toàn dưới mặt nước biển được
Tòa xác định nằm trong vùng đặc quyền kinh tế theo đề nghị của
Philippines.
Tuy nhiên, phán quyết của Tòa không giải quyết vấn đề chủ quyền hay phân
định biển. Vậy, có thể hiểu rằng, riêng vấn đề chủ quyền đối với bãi
cạn Vành Khăn, Cỏ Mây, Cỏ Rong… Tòa không ra phán quyết, mà các bên liên
quan giải quyết về vấn đề chủ quyền lãnh thổ theo nguyên tắc thụ đắc
lãnh thổ. Lúc đó, các bên liên quan sẽ phải chứng minh bãi cạn Vành
Khăn, Cỏ Mây, Cỏ Rong... về mặt địa chất, địa mạo là một phần của quần
đảo Trường Sa hay chỉ là một bộ phận cấu thành thềm lục địa của một quốc
gia ven biển liên quan theo quy định của UNCLOS 1982.
Tất nhiên, khi bàn thảo về nội dung này, người ta không thể không đề cập
đến quần đảo Trường Sa bao gồm những thực thể nào, phạm vi của nó đến
đâu. Liên quan đến phạm vi quần đảo Trường Sa, hiện nay chưa có bên liên
quan nào công bố chi tiết, chính thức. Nếu nghiêm túc dựa vào các quy
định của UNCLOS, đối chiếu với trạng thái tự nhiên của chúng trên thực
tế, với một thái độ thật sự cầu thị, thiện chí, khách quan, chắc chắn sẽ
tìm ra được những đáp số chuẩn xác nhất. Bởi vì, phán quyết của Tòa
trọng tài đã cung cấp và giải thích những khái niệm pháp lý rất chính
xác và rõ ràng; có thể được xem như là một phụ lục của UNCLOS 1982, Từ
đó, giúp cho chúng ta có căn cứ pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của mình trong Biển Đông.
Quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia
Quyền chủ quyền là quyền riêng biệt của quốc gia được thực
thi trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đây là quyền
có nguồn gốc chủ quyền , mang tính chất chủ quyền.
Quyền tài phán là hệ quả của chủ quyền và quyền chủ quyền,
có tác dụng bổ trợ tạo ra môi trường để thực thi chủ quyền và quyền chủ
quyền. Như vậy, quyền tài phán gắn bó chặt chẽ với lãnh thổ quốc gia.
Tuy vậy, quyền tài phán cũng có thể thực thi ở nơi mà quốc gia đó không
có chủ quyền. Chẳng hạn, quyền tài phán có thể được áp dụng trên tàu
thuyền, phương tiện treo cờ của quốc gia đó khi chúng đang hoạt động
trong các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc gia khác.
Quyền tài phán theo nghĩa rộng bao gồm:
- Thẩm quyền đưa ra các quyết định, quy phạm;
- Thẩm quyền giám sát việc thực hiện;
- Thẩm quyền xét xử của tòa án đối với một lĩnh vực cụ thể;
theo nghĩa hẹp đó là thẩm quyền pháp định của tòa án khi xét xử một
người hay một việc.
Khi thực hiện các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán
của mình, quốc gia ven biển có nghĩa vụ tôn trọng quyền lợi của các quốc
gia khác, không được có hành vi cản trở quyền tự do hàng hải và tự do
hàng không của tàu thuyền và các phương tiện bay, quyền tự do đặt cáp và
ống dẫn dầu ngầm; không được có hành vi phân biệt đối xử trong việc các
quốc gia khác thực hiện các quyền được UNCLOS 1982 quy định.
|
CHỦ TRƯƠNG VÀ PHƯƠNG THỨC ỨNG XỬ CỦA VIỆT NAM
Khẳng định của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng
nói trên cho thấy lập trường pháp lý và chủ trương chính trị của Việt
Nam là hoàn toàn đúng đắn, rõ ràng, thể hiện thiện chí của một quốc gia
thành viên có trách nhiệm của UNCLOS 1982, khi trên thực tế, các lực
lượng chấp pháp của Việt Nam phát hiện những hoạt động phi pháp của nhóm
tàu Hải Dương 08.
Về đấu tranh ngoại giao, Việt Nam đã nhiều lần tiếp xúc với phía Trung
Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu
chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển
Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan
hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực.
Căn cứ vào tính chất, mức độ và phạm vi xảy ra vi phạm và xuất phát từ
thiện chí, tinh thần trách nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng khu vực và
quốc tế, Việt Nam đã cân nhắc một cách thận trọng trước khi áp dụng
những hình thức đấu tranh chính trị, pháp lý, truyền thông thích hợp,
khá mạnh mẽ và đúng thủ tục pháp lý hiện hành. Nội dung các văn kiện
ngoại giao đã phản ánh đầy đủ lập trường nói trên của Việt Nam. Tuy
nhiên, không nhất thiết phải được công bố công khai. Đó là một thực tế
thông thường trong cách ứng xử giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Dù công bố hay không, giá trị pháp lý vẫn không thay đổi.
Về ứng xử của các lực lượng chấp pháp của Việt Nam tại hiện trường,
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng cho biết: “Các lực lượng
chức năng trên biển của Việt Nam tiếp tục triển khai nhiều biện pháp phù
hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa
bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam”.
Trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác định phù hợp với
quy định của UNCLOS 1982, quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ
quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên
nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển,
của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác
nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế; Quyền tài phán
theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc: Lắp đặt và sử
dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình, nghiên cứu khoa học
về biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; các quyền và các nghĩa vụ
khác do Công ước quy định.
Điều 73, UNCLOS 1982, quy định:
Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò,
khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền
về kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết,
kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm
việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công
ước.
Khi có một sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác thì cần
thả ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc
tàu này.
Các chế tài do quốc gia ven biển trù định đối với những vụ
vi phạm các luật và quy định về mặt đánh bắt trong vùng đặc quyền về
kinh tế không được bao gồm hình phạt tống giam, trừ khi các quốc gia hữu
quan có thỏa thuận khác, và không bao gồm một hình phạt thân thể nào
khác.
Trong trường hợp bắt hay giữ một tàu thuyền nước ngoài, quốc
gia ven biển thông báo ngay cho quốc gia mà tàu mang cờ biết, bằng các
con đường thích hợp, các biện pháp được áp dụng cũng như các chế tài có
thể sẽ được tuyên bố sau đó.
|
Các
quốc gia khác, có biển và không có biển, có 3 quyền khi đi vào vùng 200
hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của quốc gia
ven biển, bao gồm: quyền tự do hàng hải, hàng không, quyền tự do đặt dây
cáp, ống dẫn dầu ở đáy biển của vùng thềm lục địa. Tuy nhiên, nếu các
quốc gia thực hiện những quyền này mà ảnh hưởng đến các hoạt động thăm
dò khai thác, kinh tế hoặc nghiên cứu khoa học của quốc gia ven biển thì
phải được sự cho phép của quốc gia ven biển. Nếu không được phép là vi
phạm EEZ và thềm lục địa của quốc gia ven biển.
Hơn
nữa, theo UNCLOS 1982, việc phát hiện và xử lý các sai phạm có khả năng
xảy ra hay đã xảy ra trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, các
lực lượng chấp pháp trên biển của quốc gia ven biển cũng phải tuân thủ
các thủ tục pháp lý chặt chẽ, không được phép xử lý một cách tùy tiện,
đặc biệt là hạn chế hoặc thậm chí nghiêm cấm việc sử dụng các biện pháp
bằng sức mạnh để cưỡng bức, không qua xét xử của các cơ quan tư pháp…/.
TS. Trần Công Trục
_________________________________________________
Bài đăng TCTG số 8/2019