TỪ TIỀM NĂNG…
Biển
Việt Nam là một bộ phận của biển Đông (khoảng 29% diện tích biển Đông),
rộng gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền, bao gồm các vùng biển trong
phạm vi 200 hải lý, thềm lục địa và 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Dáng hình phần đất liền của Việt Nam hẹp chiều ngang và trải dài theo
hướng á kinh tuyến (không nơi nào cách biển >500 km). Cho nên, toàn
bộ lãnh thổ đất liền của Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của các “yếu tố
biển”, bao gồm cả yếu tố tự nhiên và phát triển.
Biển
là môi trường sống của các loài sinh vật thủy sinh, các loài chim nước,
chim di cư, các loài động thực vật trên các đảo, thậm chí là môi trường
sống lý tưởng của con người. Các vùng biển của Việt Nam có khoảng
12.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái (HST) điển
hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau với hơn 2.000 loài
cá, 230 loài tôm biển và trên 1.300 loài trên hải đảo. Biển Việt Nam
được xem là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển trên thế giới.
Yếu
tố biển rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế lãnh thổ và kinh tế biển,
chiếm vị trí trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế quốc dân
trong thời gian tới. Với khoảng 5,3 triệu tấn cá biển và khả năng khai
thác bền vững là 2,3 triệu tấn/năm, kinh tế thủy sản đóng góp lớn cho
thị phần xuất khẩu của nước ta.
Trong
vùng biển Việt Nam chứa khoảng 35 loại hình khoáng sản với quy mô trữ
lượng khai thác khác nhau từ nhỏ đến lớn, thuộc các nhóm: nhiên liệu,
kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý và bán quý, khoáng sản lỏng. Tiềm
năng dầu khí phân bố trong 6 bồn trầm tích và hoạt động khai thác dầu
khí được duy trì tại 11 mỏ ở thềm lục địa phía Nam. Dọc ven biển đã phát
hiện được các sa khoáng khoáng vật nặng của các nguyên tố hiếm quý như
titan, ziacon và xeri. Sản lượng khai thác inmênit (quặng titan) từ các
sa khoáng ven biển cả nước là 220.000 tấn/năm và ziacôn 1.500 tấn/năm.
Gần đây còn phát hiện được ở vùng bờ Nam Trung Bộ các sa khoáng nói trên
với trữ lượng có thể đứng đầu thế giới. Đây là tiềm năng khai thác các
nguyên tố hiếm - nguyên liệu rất quan trọng cho ngành công nghiệp quốc
phòng và vũ trụ.Một số mỏ cát vật liệu xây dựng dưới đáy biển ở Quảng
Ninh và Hải Phòng với trữ lượng chừng trên 100 tỷ tấn.Cát thuỷ tinh nổi
tiếng là mỏ Vân Hải (trữ lượng 7 tỷ tấn), Vĩnh Thực (20.000 tấn) và một
dải cát thạch anh ngầm dưới đáy biển Quảng Ninh (gần 9 tỷ tấn).
Tiềm
năng tài nguyên nước biển cũng rất lớn, bản thân nước biển là một hóa
chất tổng hợp có thể chắt lọc ra phần lớn các nguyên tố có mặt trong
Bảng tuần hoàn Mendeleev và còn được khai thác để sản xuất nước ngọt
trong tương lai. Ở nước ta, nước biển thường được sử dụng cho các mục
đích khác nhau; trước hết, để sản xuất muối - một lĩnh vực kinh tế biển
khá đặc thù.Hiện nay, làm muối ở Việt Nam không chỉ phục vụ cho nhu cầu
sinh hoạt, mà còn cho các ngành công nghiệp và y học.Ngoài ra, nước biển
để nuôi trồng thủy sản, để phát triển du lịch nghỉ dưỡng và chữa bệnh.
Thêm vào đó, các dạng năng lượng biển tiềm năng cần chú ý khai thác là:
băng cháy đã phát hiện triển vọng, năng lượng thủy triều ở khu vực ven
bờ Quảng Ninh - Hải Phòng, năng lượng sóng và dòng chảy ở miền Trung và
năng lượng hạt nhân nước nặng (H2O2) từ nước biển.
Lợi
thế về cảng biển luôn được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm chú trọng phát
triển. Bờ biển dài và khúc khuỷu, cứ 20 km bờ biển có một cửa sông lớn
(114 cửa sông) và khoảng 52 vịnh nước sâu ven bờ miền Trung (vũng vịnh,
đầm phá chiếm 60% chiều dài đường bờ biển), hơn 100 vị trí có thể xây
dựng các cảng biển lớn. Giao thông đường biển có lợi thế gần tuyến đường
hàng hải quốc tế và khu vực.
Biển
là tiền đề và là nền tảng cho việc phát triển lâu dài một số ngành kinh
tế biển như: du lịch, thuỷ sản, hàng hải, khai khoáng và y dược,…Không
gian du lịch biển tập trung chủ yếu ở vùng ven biển và các đảo ven bờ,
nơi tập trung nhiều di sản cấp toàn cầu và quốc gia với văn hóa biển độc
đáo.
…ĐẾN THÁCH THỨC
Bên
cạnh vai trò to lớn mà biển đem lại, biển nước ta cũng đối mặt với
nhiều thách thức. Trước hết là chất lượng nước biển diễn biến theo chiều
hướng xấu, ngày càng nhiều chất thải không qua xử lý từ đất liền đổ vào
biển; rác thải biển, đảo trở thành vấn đề nan giải; ô nhiễm nhận chìm
có xu hướng tăng mạnh. Ngoài ô nhiễm biển, suy thoái các hệ sinh thái,
nước ta còn đối mặt với tác động hiện hữu của biến đổi khí hậu và biến
đổi đại dương, thiên tai và tai biến môi trường (sự cố tràn dầu, xói lở
bờ biển, bồi tụ vùng cửa sông,…). Sự cố, thảm họa môi trường biển ngày
càng gia tăng và biển bị đầu độc do khai thác theo cách hủy diệt của con
người bằng mìn và hóa chất, thừa chất thải hữu cơ, khai thác cát biển,
đổ thải bất hợp pháp,... Đặc biệt, gần đây Trung Quốc đã mở rộng, tôn
tạo các bãi cạn rạn san hô ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
thành đảo nhân tạo,… khiến cho môi trường rạn san hô ở đây bị phá hủy
vĩnh viễn, làm tê liệt chức năng sinh thái vốn có của nó, nguồn lợi thủy
sản suy thoái đến mức khó có thể phục hồi và nghề cá khu vực có nguy cơ
“đổ vỡ”.
Biến
đổi khí hậu và biến đổi đại dương trở thành thách thức toàn cầu, lớn
nhất trong thế kỷ XI. Theo Ngân hàng thế giới (WB), nước biển dâng lên
5m thì Việt Nam mất 16% diện tích đất đai, đe dọa 35% dân số và 35% tổng
sản phẩm quốc nội; các vùng đất thấp ven biển, các đảo san hô và hàng
loạt hệ sinh thái, cơ sở hạ tầng bị phá hủy vì ngập dưới nước biển.
Ngoài ra, nước ta còn chịu nhiều rủi ro thiên tai trên biển và các hiện
tượng thời tiết cực đoan và hậu quả từ biến đổi khí hậu, như: bão, tố,
nước dâng trong bão,...
Đứng
trước những thách thức lớn đó, việc phát triển kinh tế phải gắn với bảo
vệ môi trường: không để biển trở thành “thiên đường” của các dự án gây ô
nhiễm. Tất cả hoạt động khai thác, sử dụng biển đều cần không gian biển
riêng, gây mâuthuẫn lợi ích và xung đột không gian trong cùng một vùng
biển.Vì vậy, phải phân vùng sử dụng không gian biển hợp lý, quản lý tổng
hợp biển dựa vào hệ sinh thái, tiến tới thống nhất quản lý nhà nước về
biển, đảo.
Một
thách thức lớn nữa mà chúng ta không thể không nhắc tới đó chính là
thách thức về chủ quyền biển, đảo. Đặc biệt là phải đối mặt với việc
Trung Quốc theo đuổi ý đồ “độc chiếm Biển Đông” cùng với yêu sách phi lý
về “đường chín đoạn”, triển khai sáng kiến “Nhất đới, nhất lộ” với “Con
đường tơ lụa trên biển thế kỷ XI” và “Chuỗi ngọc trai” trên biển.
“Con
đường tơ lụa” trên biển không chỉ là mối đe dọa về an ninh và chủ quyền
lãnh thổ đối với các nước láng giềng, nhất là các nước đang có tranh
chấp biển, đảo với Trung Quốc ở Biển Đông mà còn đối với tự do, an ninh,
an toàn hàng hải trên biển một khi Trung Quốc thiết lập một “luật chơi”
riêng.
BẢO VỆ KHÔNG GIAN SINH TỒN CỦA DÂN TỘC
Biển
được xem là không gian sinh tồn của dân tộc ta, đó là không gian phát
triển và an ninh. Để bảo vệ, đầu tiên chúng ta cần cải thiện “sức khỏe”
của biển thông qua việc phát triển và phục hồi các thảm thực vật dưới
biển (thực vật phù du, rong tảo, cỏ biển) và ven biển (rừng ngập mặn) để
tăng khả năng thu-giữ CO2, giảm thiểu biến đổi khí hậu. Chú trọng phát
triển kinh tế biển xanh, tăng trưởng xanh một cách bền vững.
Rà
soát lại chiến lược và kế hoạch phát triển biển, đảo phù hợp với tinh
thần của Chương trình Nghị sự 21 về định hướng phát triển bền vững quốc
gia, của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, của mục tiêu phát triển
bền vững biển đến 2030 (Mục tiêu 14) với việc tính đến các kịch bản rủi
ro thiên tai và nhân tai, tính đến yêu cầu hội nhập quốc tế.
Tăng
cường tính liên ngành trong phát triển và quản lý kinh tế biển vì lợi
ích chung và lâu dài qua các công cụ chính sách, quy hoạch lồng ghép.
Phối hợp thành lập và quản lý các khu bảo tồn ven biển và biển, đảo để
bảo toàn chức năng sinh thái của vùng biển và nguồn vốn tự nhiên biển
cho phát triển biển bền vững. Tăng cường nâng cao nhận thức về kinh tế
biển bền vững, giảm thiểu các hành vi gây hại đối với môi trường và tài
nguyên biển, cũng như cách ứng xử, đối phó với thiên tai, kiểm soát tốt
nguồn thải, làm sạch bãi biển. Phát triển du lịch sinh thái với quy mô
lớn hơn, lợi ích nhiều hơn và bền vững hơn.
Để
duy trì “nồi cơm Thạch Sanh” cho các cộng đồng địa phương, cần xúc tiến
quản lý biển theo cách tiếp cận tổng hợp nhằm giảm thiểu tác động từ
các hoạt động của các ngành kinh tế khác đến chất lượng sản phẩm; và từ
chính hoạt động kinh tế đến môi trường và tài nguyên biển. Quản lý thống
nhất về mặt Nhà nước đối với biển, đảo.
Tiếp
tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam và củng cố bằng chứng đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong giải quyết các vấn đề tranh chấp
biển, cần kiên định, linh hoạt, không để xảy ra xung đột quân sự; đẩy
mạnh phát triển kinh tế biển để bảo đảm thực thi chủ quyền dân sự trên
các vùng biển của Tổ quốc; gắn kinh tế với quốc phòng và thực hiện dân
sự hóa.
Thực
hành tư tưởng Hồ Chí Minh: “iển bạc của ta do nhân dân ta làm chủ” và
“dĩ bất biến, ứng vạn biến”; trong đó, yếu tố bất biến là vấn đề chủ
quyền của Việt Nam đối với các vùng biển và hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, vạn biến là để bảo vệ chủ quyền cần sử dùng nhiều biện pháp
linh hoạt, “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, góp phần xây dựng một Biển Đông
hòa bình và thịnh vượng./.
PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi