Thực trạng về cơ cấu đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay
Hiện
nay, cán bộ, công chức cơ sở nước ta có số lượng khá lớn trong tổng số
cán bộ của hệ thống chính trị, đóng vai trò nòng cốt trong bộ máy nhà
nước. Đây là đội ngũ cán bộ trực tiếp triển khai thực hiện các đường
lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
đến với nhân dân, đồng thời tổ chức tuyên truyền, vận động và tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước tại cơ sở. Đội ngũ này có vai trò quan trọng mang
ý nghĩa quyết định đối với chất lượng và hiệu quả các chủ trương,
đường lối, chính sách được triển khai, là yếu tố góp phần quan trọng
vào những thành công trong sự nghiệp đổi mới, đồng thời góp phần vào
đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Theo
thống kê, đến cuối năm 2015, nước ta có khoảng 11.200 đơn vị hành chính
cấp xã, trong đó bao gồm gần 1.600 phường, gần 600 thị trấn và hơn 9.000
xã, với trên 230.000 cán bộ, công chức. Ngoài ra, còn khoảng 320.000
cán bộ không chuyên trách cơ sở. Về tỉ lệ cán bộ, công chức, có 49,6%
trong tổng số là cán bộ và 50,4% là công chức. Trong toàn bộ đội ngũ cán
bộ, công chức cơ sở toàn quốc, tỉ lệ cán bộ, công chức là đảng viên
khá cao, ước tính chiếm tỷ lệ 85%. Các tỉnh, thành phố có tỉ lệ cán
bộ là đảng viên tương đối cao, chiếm từ 90% đến 95% gồm: Kon Tum, Hải
Phòng, Quảng Bình, Hải Dương, An Giang, Hưng Yên, Thái Bình, Bến Tre,
Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bắc Ninh, Cà Mau, Trà Vinh, Nam Định. Bên cạnh
những tỉnh, thành phố có số lượng đảng viên cao, một số tỉnh, thành phố
có tỉ lệ cán bộ là đảng viên được xem là thấp hơn so với trung bình
chung toàn quốc, chỉ từ 70% đến 80% bao gồm (sắp xếp theo thứ tự từ thấp
đến cao): Lào Cai, Thành phố Hồ Chí Minh, Cao Bằng, Lai Châu, Bình
Thuận, Bình Phước, Ninh Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Liên
quan đến cơ cấu cán bộ phân theo thành phần dân tộc, kết quả cho thấy có
20,5% cán bộ cơ sở là người dân tộc thiểu số. Sự phân bố giữa các tỉnh
không đồng đều do đặc thù địa phương. Một số tỉnh, do đặc thù địa bàn
tập trung nhiều người dân tộc thiểu số nên tỉ lệ cán bộ là người dân tộc
thiểu số chiếm khá cao. Một số tỉnh, thành phố có hơn 80% cán bộ cơ sở
là người dân tộc thiểu số, như Hoà Bình, Lai Châu, Điện Biên, Hà Giang,
Sơn La, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Cao Bằng. Trong đó, các tỉnh Lạng Sơn, Bắc
Kạn, Cao Bằng có tỉ lệ cán bộ cơ sở là người dân tộc thiểu số chiếm
trên 90%.
Về
đặc điểm tôn giáo, số cán bộ cơ sở là người theo một tôn giáo cụ thể
không cao, chiếm khoảng 2,9%. Về cơ bản, đa số tỉnh, thành phố có tỉ lệ
cán bộ cơ sở có theo tôn giáo chiếm dưới 3%. Một số địa phương có tỉ lệ
cán bộ có theo tôn giáo ở mức cao hơn do đặc thù địa phương có đông
người dân theo đạo.
Như
vậy, đội ngũ cán bộ cơ sở chiếm một lực lượng rất đông đảo, đang trực
tiếp làm việc với nhân dân, đem chính sách, quan điểm, đường lối của
Đảng và Nhà nước triển khai tại địa bàn cơ sở. Do vậy, trình độ, chất
lượng, năng lực của đội ngũ cán bộ cần phải đạt chuẩn và đáp ứng nhu cầu
thực tiễn đặt ra, đặc biệt trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước cũng như trên ngưỡng cửa của cuộc cách mạng công nghệ lần
thứ tư hiện nay.
Một số vấn đề đặt ra về cơ cấu đội ngũ cán bộ cơ sở
Về trình độ học vấn, nếu
tính mặt bằng chung toàn quốc, trình độ học vấn của cán bộ cơ sở không
phải là thấp. Tuy nhiên còn tồn tại thực trạng không đồng đều giữa các
địa phương, giữa các thành phố lớn và các tỉnh vùng sâu, vùng xa. Kết
quả thống kê của Bộ Nội vụ cho thấy, trên bình diện cả nước có 88% cán
bộ cơ sở có trình độ từ trung học phổ thông trở lên. Đối với trình độ
từ đại học trở lên, có hơn 38% cán bộ cơ sở đạt được trình độ này.
Trình độ học vấn của cán bộ cơ sở tại các thành phố lớn thường đồng đều
và cao hơn so với các tỉnh vùng sâu, vùng xa. Đà Nẵng là một thành phố
đáng chú ý với 100% cán bộ cơ sở có trình độ từ trung học phổ thông trở
lên, tiếp đến là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cũng gần đạt được
ngưỡng này. Ngược lại, tỉ lệ cán bộ chưa đạt trình độ trung học phổ
thông tập trung cao nhất ở Điện Biên (51,98%), Lai Châu (46,12%).
Về số
lượng cán bộ có trình độ từ đại học trở lên, các thành phố lớn là nơi
có tỉ lệ cán bộ cấp xã đạt trình độ từ đại học trở lên cao nhất như, Hà
Nội (69%), Bình Dương (66%), Đà Nẵng (66%), Thành phố Hồ Chí Minh
(65,8%). Các địa phương có tỉ lệ cán bộ cơ sở có trình độ từ đại học
trở lên thấp nhất chủ yếu tập trung ở những tỉnh vùng sâu, vùng xa, như
Điện Biên (11,4%), Hòa Bình (16,4%), Đắc Lắc (18,7%). Ngoài ra, tỉnh
Vĩnh Phúc là tỉnh khá gần với Hà Nội, tuy nhiên cũng thuộc nhóm các địa
phương có tỉ lệ cán bộ có trình độ đại học trở lên dưới 20%. Trình độ
học vấn không phải là yếu tố duy nhất hay yếu tố mang tính quyết định,
nhưng không phủ nhận việc có được trình độ học vấn cao sẽ giúp cán bộ có
được sự hiểu biết toàn diện và có khả năng phân tích, nhìn nhận vấn đề
đa chiều cạnh hơn, đồng thời có thể vận dụng tốt hơn trong quá trình
quản lý, điều hành và làm việc trực tiếp với người dân địa phương, tạo
được uy tín trong đội ngũ cán bộ cũng như tại địa phương.
Trình độ lý luận và quản lý nhà nước: Thống
kê của Bộ Nội vụ vào tháng 12- 2015 cho thấy, hơn 50% cán bộ có trình
độ trung cấp chính trị và đây cũng là trình độ lý luận phổ biến nhất
của cán bộ cơ sở. Trình độ cao cấp hoặc cử nhân chính trị chiếm tỉ lệ
không đáng kể (4%). Ngoài ra, có 20% cán bộ đạt trình độ sơ cấp và 22%
cán bộ chưa qua đào tạo/chưa có các xác nhận về các trình độ lý luận
chính trị.
Về
trình độ quản lý, tính chung cả nước chỉ có 17% cán bộ cơ sở đã qua đào
tạo và được cấp chứng chỉ chuyên viên/chuyên viên chính hoặc tương
đương, trong đó trình độ chuyên viên chính là rất thấp (dưới 0,5%) còn
lại là chuyên viên hoặc tương đương. Điều này cũng đồng nghĩa với việc
một tỉ lệ đáng kể, hơn 80% cán bộ, công chức cơ sở chưa qua đào tạo
chuyên viên/ chuyên viên chính.
Có
một thực tế là, tỉ lệ trung bình được đào tạo chuyên viên/chuyên viên
chính hoặc tương đương ở đội ngũ cán bộ sơ sở là rất thấp, nhưng lại
không đồng đều giữa các tỉnh/thành phố khác nhau, trong khi vai trò,
nhiệm vụ cần thực hiện của cán bộ, công chức không có sự phân biệt lớn
giữa các địa phương. Các tỉnh có số cán bộ được trang bị kiến thức quản
lý nhà nước (chuyên viên/chuyên viên chính) thấp và thấp nhất trong số
63 tỉnh/thành phố bao gồm: Bắc Kạn (0%), Gia Lai (0,09%), Tiền Giang
(0,18%), Hải Phòng (0,5%). Bên cạnh đó, một số tỉnh, thành phố có tới
trên 50% cán bộ xã đã được trang bị kiến thức quản lý nhà nước (chuyên
viên/chuyên viên chính), nhóm các địa phương có tỉ lệ cao nhất bao gồm:
Quảng Ninh (75%), Nam Định (68,36%), Đà Nẵng (60,2%), Thái Nguyên (60%),
Phú Yên (52,9%), Hà Nội (52,4%), Bà Rịa - Vũng Tàu (51%).
Cơ cấu tuổi và giới tính của đội ngũ cán bộ: Phân
tích cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở theo đặc điểm giới tính,
cho thấy khá rõ thực trạng mất cân bằng về giới tính. Trên bình diện
chung toàn quốc, trong hơn 230.000 cán bộ, công chức cơ sở trên toàn
quốc thì tỉ lệ cán bộ là nữ chỉ chiếm khoảng gần 26% trong tổng số cán
bộ. Như vậy 3/4 cán bộ công chức cơ sở là nam giới. Thực tế tại 63
tỉnh, thành phố trên toàn quốc, tỉ lệ cán bộ, công chức nữ cấp cơ sở
đều thấp hơn đáng kể so với nam giới. Tuy nhiên, ở một số địa phương, tỉ
lệ cán bộ nữ cấp cơ sở rất thấp. Những tỉnh, thành phố có tỉ lệ cán
bộ nữ chiếm dưới 1/5 tổng số cán bộ là: Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Nam Định,
Sơn La, Thái Bình, Hưng Yên, Cà Mau, Hậu Giang, Hải Dương, Hà Nam, Hòa
Bình. Cá biệt tỉnh Bến Tre, cán bộ là nữ chỉ chiếm tỉ lệ gần 3%.
Về cơ cấu tuổi: Cơ
cấu tuổi của cán bộ, công chức địa phương nếu đạt được sự cân bằng giữa
các khoảng tuổi thì đó là một trong những yếu tố tích cực hướng tới vận
hành bộ máy chính quyền cơ sở đạt được hiệu quả cao và có tính bền
vững. Phân tích tổng hợp hơn 230.000 cán bộ, công chức cơ sở trên toàn
quốc, kết quả cho thấy cấu trúc độ tuổi tương đối hợp lý và lý tưởng để
phát triển đội ngũ cán bộ kế cận. Độ tuổi trung niên và sung sức nhất
(30 tuổi - 40 tuổi) cũng chính là độ tuổi có tỉ lệ cán bộ cao nhất:
chiếm 35%; độ tuổi từ 41 - 50 chiếm 27%; độ tuổi cao nhất - từ 50 tuổi
trở lên chỉ chiếm 19% và ngang bằng với tỉ lệ cán bộ ở độ tuổi dưới 30
tuổi.
Mặc
dù cơ cấu độ tuổi cán bộ trung bình toàn quốc là lý tưởng, nhưng vẫn tồn
tại sự mất cân bằng, hay nói cách khác là “già hóa” cán bộ ở một số
địa phương. Một số tỉnh, thành phố có trên 25% cán bộ, công chức có độ
tuổi từ 50 tuổi trở lên: Hòa Bình, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Thanh Hóa,
Nghệ An, Bắc Kạn, Tiền Giang, Thái Bình, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Hải
Dương, Hà Nam, Vĩnh Phúc. Mức độ “già hóa” có lẽ ở mức đáng báo động
nhất là tỉnh Vĩnh Phúc, với ước tính 64% tổng số cán bộ sơ sở có độ
tuổi trên 50 tuổi. Ngoài ra, Vĩnh Phúc cũng là tỉnh có tỉ lệ cán bộ trẻ
dưới 30 tuổi rất thấp (6,4%), còn lại đa phần là ở độ tuổi tương đối cao
(41 tuổi - 50 tuổi). Điều này đồng nghĩa với thực trạng nếu như tỉnh
Vĩnh Phúc không có chiến lược bổ sung đội ngũ cán bộ kịp thời sẽ dễ tạo
ra lỗ hổng về đội ngũ cán bộ cơ sở trong thời gian nhất định.
Như
vậy, về số lượng, đội ngũ cán bộ cơ sở của 63 tỉnh, thành trên toàn
quốc chiếm một lực lượng đông đảo và đáng kể trong bộ máy chính quyền.
Bên cạnh đó, họ đã đạt được những tiêu chí nhất định về chất lượng nguồn
lực, bao gồm trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, quản lý
nhà nước. Tuy nhiên cũng tồn tại thực trạng chênh lệch về cả 3 tiêu chí
nói trên trong đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, đặc biệt là trình độ học vấn,
lý luận chính trị và quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế ở vùng sâu,
vùng xa hay ở một số tỉnh có số lượng cán bộ cao tuổi chiếm một tỉ lệ
đáng kể. Bên cạnh tình trạng mất cân bằng về giới tính nói chung trong
đội ngũ cán bộ, trong đó mất cân bằng đáng chú ý ở một số địa phương thì
cũng còn nhiều tỉnh, thành phố rơi vào tình trạng mất cân bằng về cơ
cấu tuổi của đội ngũ cán bộ cơ sở: đội ngũ cán bộ thuộc nhóm tuổi cao
còn chiếm tỉ trọng lớn, dễ dẫn đến mất cân bằng và thiếu hụt đội ngũ cán
bộ kế cận trong tương lai.
Một số đề xuất
Nhằm
bảo đảm duy trì đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đủ về số lượng và từng
bước nâng cao chất lượng, thu hẹp sự mất cân bằng về giới tính và độ
tuổi tại một số địa phương, mỗi một tỉnh, thành phố cần dựa trên điểm
mạnh, hạn chế của đội ngũ cán bộ địa phương để xây dựng chiến lược phát
triển đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở trong vòng 15 năm - 20 năm tới,
trong đó chú trọng một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần
có chiến lược đào tạo và đào tạo lại trình độ cho đội ngũ cán bộ, công
chức hiện tại tại các tỉnh, thành phố còn hạn chế về trình độ học vấn,
trình độ lý luận chính trị, quản lý nhà nước. Các địa phương cần xác
định rõ mục tiêu, phương pháp thực hiện phù hợp; những tiêu chuẩn chuẩn
hóa đối với từng vị trí, chức năng, nhiệm vụ của cán bộ tại địa
phương; những nguồn lực hỗ trợ cần thiết để thực hiện mục tiêu nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở. Bên cạnh nguồn lực tại chỗ thì các tỉnh
có đặc thù đội ngũ cán bộ hạn chế về trình độ học vấn, lý luận chính
trị, quản lý nhà nước rất cần có sự hỗ trợ của Trung ương, cả về chủ
trương và nguồn lực nhằm đạt được hiệu quả nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, tiến tới nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc tại cấp cơ
sở.
Thứ hai, đối
với công tác tuyển dụng cán bộ cơ sở tại các tỉnh, thành phố, cần tính
đến và cân nhắc, xem xét đặc thù cơ cấu tuổi của đội ngũ cán bộ hiện
tại nhằm xây dựng kế hoạch bổ sung lực lượng đội ngũ cán bộ tương lai
trong 10 năm - 20 năm tiếp theo. Đối với các tỉnh, thành phố có trên 30%
cán bộ, công chức từ 50 tuổi trở lên cần nhanh chóng lên phương án bổ
sung công tác cán bộ trong giai đoạn trước mắt, tránh tình trạng tạo ra
nhiều lỗ hổng về cán bộ hoặc tuyển dụng ồ ạt không bảo đảm chất lượng.
Thứ ba, chú
trọng đến yếu tố cân bằng giới trong công tác cán bộ, đồng thời dần xoá
bỏ định kiến giới trong công tác tuyển dụng, bố trí cán bộ. Cần có
chính sách ưu tiên tuyển dụng nữ giới vào các vị trí cán bộ cơ sở tại
các tỉnh, thành phố đang mất cân đối lớn về nam và nữ trong đội ngũ cán
bộ.
Thứ tư, chú
trọng đến chất lượng đội ngũ cán bộ mới tuyển dụng vào vị trí cán bộ cơ
sở, đồng thời có kế hoạch đào tạo nguồn cán bộ bảo đảm ở tất cả các
phương diện: trình độ, năng lực chuyên môn, trình độ lý luận, quản lý
nhà nước, kinh nghiệm điều hành, quản lý, giải quyết, triển khai các
công việc tại cơ sở./.
Nguyễn Hồng Sơn(*), Đặng Thị Ánh Tuyết(**), Dương Thị Thu Hương(***)
(*)
Chánh văn phòng Hội đồng Lý luận Trung ương, (**) Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, (***) Học viện Báo chí Tuyên truyền
Nguồn: Tạp chí Cộng sản