1. Toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giới hiện đại,
không chỉ dừng lại trong lĩnh vực kinh tế, mà còn mở rộng, lan tỏa,
thâm nhập các lĩnh vực khác của đời sống, từ xã hội, môi trường đến khoa
học, công nghệ, văn hóa, pháp luật, giáo dục,... Chính quá trình tác
động và thấm sâu của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vào toàn
bộ các lĩnh vực của một dân tộc, một quốc gia mà nhân loại đang đứng
trước nhiều vấn đề hệ trọng đối với sự đứng vững, tồn tại và phát triển
của từng quốc gia, dân tộc và của từng khu vực trên thế giới trong quan
hệ mang tính toàn cầu đang diễn ra cực kỳ phong phú và phức tạp hiện
nay. Toàn cầu hóa vừa là thời cơ cho sự hội nhập và phát triển kinh tế -
xã hội, đồng thời cũng là những thách thức to lớn, nhiều khi hoàn toàn
mới mẻ, đối với vấn đề giữ gìn, bảo vệ, phát huy và phát triển các giá
trị văn hóa riêng biệt, độc đáo, có tính truyền thống của mỗi dân tộc,
quốc gia trong bối cảnh và đặc điểm mới của thế giới hiện đại.
Kết quả của toàn cầu hóa là tạo ra những
giá trị chung, là sự xích lại gần nhau, đan xen giữa các quá trình của
sự phát triển, đặc biệt trên các lĩnh vực quan trọng như kinh tế, khoa
học - công nghệ, thương mại,... Tuy vậy, toàn cầu hóa không có nghĩa là
tất cả các quốc gia, các dân tộc sẽ tiến tới một sự đồng nhất về mọi
mặt, mà ngược lại, toàn cầu hóa chỉ có thể diễn ra khi đồng thời tạo ra
những giá trị phổ quát cho nhiều quốc gia, nhiều dân tộc, mang lại cho
các dân tộc những điều kiện và cơ hội tốt để phát huy và phát triển
những giá trị riêng, độc đáo, đặc trưng của dân tộc mình. Và điều đó sẽ
diễn ra không phải là hệ quả tự nhiên của toàn cầu hóa, mà nhất thiết
phải cần một quá trình cùng điều chỉnh, cùng hợp tác và đấu tranh của
các quốc gia, dân tộc tham gia toàn cầu hóa. Nêu không làm được điều
này, sẽ diễn ra một quá trình mà các thế lực mạnh và đen tối sẽ lái "con
tàu" toàn cầu hóa về hướng làm thui chột, làm yếu đi các giá trị văn
hóa riêng của từng dân tộc, sẽ thực hiện mưu đồ áp đặt văn hóa, biến các
quốc gia khác thành lệ thuộc, tự đánh mất mình trong thế giới hiện đại.
Ở đây, về mặt văn hóa, trong quá trình
toàn cầu hóa, mỗi dân tộc phải đứng trước và luôn luôn phải xử lý mâu
thuẫn giữa toàn cầu hóa có xu hướng mạnh, tạo ra các giá trị phổ quát
chung với bản sắc văn hóa riêng, độc đáo của dân tộc. Và đây cũng chính
là một đặc điểm riêng trong quan hệ giữa toàn cầu hóa và văn hóa của các
dân tộc.
Xin lưu ý rằng, không đơn thuần chỉ là
vấn đề bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa của từng dân tộc trước tác động
của toàn cầu hóa, mà còn có những vấn đề lớn hơn, sâu hơn: phát huy bản
sắc dân tộc trong chính quá trình giao lưu, hợp tác văn hóa, phát triển
và tự làm giàu có mình hơn, phong phú, hiện đại hơn trong quá trình chủ
động giao tiếp và tiếp nhận, "cho và nhận" về mặt văn hóa. Không nhận
biết sâu và biện chứng quá trình trên sẽ dẫn tới một cách nhìn phiến
diện, với khuynh hướng bảo thủ cho rằng, để đối phó với toàn cầu hóa,
mỗi dân tộc trong khi mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, phải đóng cửa về
văn hóa, "khư khư" giữ gìn, bảo vệ các bản sắc riêng của mình, không
chấp nhận cả cho và nhận, vốn là một quy luật nội tại của sự tồn tại và
phát triển của mỗi nền văn hóa dân tộc.
|
Một hoạt động trong khuôn khổ “Những ngày Văn hóa Việt Nam tại Nga” năm 2016 - Ảnh: Cổng TTĐT Chính phủ
|
2. Xét về mặt lịch sử và đặc trưng văn
hóa, văn hóa Việt Nam không hề xa lạ với sự giao lưu, tiếp nhận, tác
động lẫn nhau của văn hóa các nước và văn hóa khu vực. Quá trình này
diễn ra không ngừng, theo cả chiều dài lịch sử và theo cả không gian,
địa - ván hóa.
Lãnh thổ Việt Nam có một đặc điểm lợi
thế là nằm trên vùng đất có sự giao thoa, thâm nhập lẫn nhau của nhiều
nền văn hóa. Ngay từ buổi đầu dựng nước, Việt Nam đã có sự giao thoa
giữa văn hóa Đông Nam Á với văn hóa Đông Á và sau này, cũng trong một
thời gian dài, là giữa văn hóa Trung Hoa và văn hóa Ấn Độ. Đến thời cận
đại, xuất hiện và phát triển sự giao lưu, tác động lẫn nhau giữa văn hóa
châu Á với văn hóa châu Âu trên lãnh thổ Việt Nam. Chính từ đặc điểm
này mà ngay từ đầu và trong toàn bộ quá trình phát triển của mình, văn
hóa Việt Nam đã trưởng thành, tạo nên những giá trị độc đáo của dân tộc
dựa trên một năng lực rất đặc biệt, đó là vừa tự nuôi dưỡng và phát huy
những giá trị của chính mình - văn hóa bản địa, vừa biết tiếp nhận, chọn
lọc những giá trị tốt đẹp của nhiều nền văn hóa khác. Tính thống nhất,
tính nhiều nguồn và tính đa dạng trở thành đặc trưng của văn hóa Việt
Nam, không chỉ vì đất nưóc, dân tộc Việt Nam bao gồm 54 dân tộc đã cùng
sống, lao động, xây dựng và sáng tạo từ bao đời nay, mà còn vì đó là một
nền văn hóa biết tiếp nhận và làm phong phú cho mình bằng những giá trị
của nhiều nền văn hóa trên thế giới, cả Đông và Tây, cả gần và xa,...
Có một đặc trưng hay một quy luật cần
nhấn mạnh là, trong quá trình giao lưu, tiếp nhận đó, chỉ có những giá
trị văn hóa bên ngoài nào phù hợp với nhu cầu phát triển của Việt Nam,
được chọn lọc và được Việt hóa mới có thể trở thành những thành tố hữu
cơ cấu thành văn hóa Việt Nam. Sự chọn lọc và sự sàng lọc để trở thành
giá trị văn hóa Việt Nam đã diễn ra không ngừng, thầm lặng và cực kỳ
tinh tế trong tiến trình lịch sử và tiến trình văn hóa. Ví dụ, những giá
trị tốt đẹp của Phật giáo và Nho giáo, từ những thế kỷ đầu Công nguyên,
đã qua quá trình sàng lọc đó để những ý tưởng từ bi, bác ái của Phật
giáo trong sự hòa quyện với khát vọng hướng thiện, yêu thương con người
của dân tộc ta trở thành một phẩm giá đặc trưng của con người Việt Nam,
của văn hóa Việt Nam. Đó là chủ nghĩa nhân văn mộc mạc nhưng sâu sắc và
bền vững trong văn hóa Việt Nam. Những giá trị đạo đức xã hội mà Nho
giáo truyền bá vào Việt Nam từ hàng ngàn năm đã bắt rễ và hòa đồng với
những quan điểm và khát vọng đạo đức của văn hóa bản địa Việt Nam, tạo
nên những chuẩn mực vững bền về đạo đức của văn hóa truyền thống, được
thể hiện từ trong gia đình, làng xóm đến cộng đồng và đất nước.
Đặc điểm trên của văn hóa Việt Nam không
chỉ thể hiện trong quá khứ xa xôi, mà cả trong giai đoạn cận và hiện
đại, khi mà sự giao lưu và tiếp xúc văn hóa trên thế giới diễn ra mạnh
mẽ, sâu rộng, phức tạp hơn. Đó là giai đoạn gặp nhau, tác động lẫn nhau,
vừa như là sự "đối chọi" lại vừa như là sự "hấp dẫn" lẫn nhau giữa văn
hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Trong tình hình đó, ở Việt Nam đã
diễn ra một quá trình rất phong phú, tinh tế để cách tân văn hóa, từng
bước hiện đại hóa nền văn hóa truyền thống thông qua tiếp nhận, chọn lọc
những giá trị hoàn toàn mới của phương Tây và nỗ lực không mệt mỏi phát
huy, giữ gìn những giá trị tốt đẹp, bền vững, phù hợp với sự phát triển
của văn hóa dân tộc. Trong mối quan hệ đó, có lẽ, chỉ cần nêu một dẫn
chứng mẫu mực là cuộc đời, sự nghiệp văn hóa và những kinh nghiệm ứng xử
của Chủ tịch Hồ Chí Minh để chứng minh cho bước phát triển và đặc trưng
của văn hóa Việt Nam thời kỳ cận và hiện đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra
đi tìm đường cứu nước cũng để học hỏi, tìm kiếm những gì tốt đẹp nhất
của các nền văn hóa lớn trên thế giới, từ đó Người đã chọn lọc để làm
phong phú thêm cho nền văn hóa lâu đời của dân tộc ta. Ở Người là sự kết
hợp tuyệt vờí những tinh hoa của nhiều nền văn hóa thế giới với những
giá trị cao quý và bền vững nhất trong văn hóa dân tộc.
Sự thổ lộ chân thành và đánh giá sâu sắc
của Người về những giá trị mà Người chọn lọc và tiếp nhận cho mình
trong các học thuyết của Khổng Tử, Giêsu, Các Mác và Tôn Dật Tiên là một
minh chứng không chỉ về kinh nghiệm ứng xử văn hóa của bản thân Người,
mà có lẽ, trở thành một quan niệm tiếp nhận, chọn lọc, sàng lọc của văn
hóa dân tộc ta đối với văn hóa thế giói. Theo Người, Học thuyết của
Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo
Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm
của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu
điểm của nó là thích hợp với điều kiện nước ta. Tôi cố gắng làm người
học trò nhỏ của các vị ấy.
Đứng
vững trên mảnh đất Việt Nam, xuất phát từ khát vọng chung của dân tộc
để giữ gìn, phát huy, khẳng định bản sắc dân tộc đồng thời tiếp nhận qua
sàng lọc những giá trị của văn hóa nhân loại, cả Đông và Tây, cả quá
khứ lịch sử và hiện đại là phẩm chất, là đặc trưng của văn hóa Việt Nam
trong quá trình giao lưu và hợp tác văn hóa.
|
3. Những đặc điểm, kinh nghiệm lịch sử
trong tiến trình đó của văn hóa Việt Nam được thể hiện đặc biệt rõ trong
hoạt động thực tiễn nhằm mở rộng và phát triển hợp tác quốc tế về văn
hóa của chúng ta những năm đổi mới, những năm thực hiện Nghị quyết số
03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc và những nghị quyết gần đây, đặc biệt là Nghị quyết 33- NQ/TW vừa
qua.
Thành tựu nổi bật của hợp tác quốc tế về
văn hóa trong những năm qua là đã triển khai toàn diện các lĩnh vực hợp
tác, giao lưu văn hóa, thông tin đối ngoại, mở rộng quan hệ ở nhiều địa
bàn, từng bước phát triển sang tất cả các châu lục. Ví dụ, mấy năm gần
đây, bước đột phá của hợp tác quốc tế về văn hóa là chúng ta đã tạo được
sự hiện diện của văn hóa Việt Nam tại khu vực châu Mỹ và châu Phi. Đồng
thời, chúng ta cũng đã tạo được nhiều phương thức, hình thức hợp tác đa
dạng, phong phú, phù hợp với từng khu vực, từng nước. Đây là bước phát
triển về quy mô và chất lượng của sự hợp tác quốc tế về văn hóa, qua đó
đã làm tốt hơn, có hiệu quả hơn nhiệm vụ "giới thiệu văn hóa, đất nước
và con người Việt Nam với thế giới, tiếp thu có chọn lọc các giá trị
nhân văn, khoa học, tiến bộ của nưóc ngoài", tạo nên sự đồng cảm, hiểu
biết và xích lại gần nhau hơn nữa giữa dân tộc ta và các dân tộc trên
thế giới. Đó cũng chính là mặt mạnh, tính ưu việt của hợp tác quốc tế về
văn hóa mà chúng ta đã và đang khai thác, phát huy, qua đó, vị thế Việt
Nam trên trường quốc tế được nâng cao, con người và cuộc sống Việt Nam
thời kỳ đổi mới được bạn bè thế giới hiểu biết rõ hơn, đúng hơn.
Trong sự hợp tác đa dạng đó, chúng ta đã
tổ chức thành công nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật ở nước ngoài, đã
chủ động lựa chọn, xây dựng, tạo được một số sản phẩm, ấn phẩm, công
trình văn hóa, chương trình nghệ thuật có chất lượng cao phục vụ công
tác giao lưu và hợp tác, được trình diễn, triển lãm ở nước ngoài. Thời
gian qua, chúng ta đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế về văn hóa,
nghệ thuật tại các cuộc thi, triển lãm, liên hoan quốc tế. Cùng với lực
lượng hoạt động văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, lực lượng đông đảo
hoạt động văn hóa, nghệ thuật quần chúng của các tổ chức và đoàn thể
cũng đã góp phần làm phong phú, đa dạng sự giao lưu văn hóa của nước ta
với cả ở trong và ngoài nước.
Những năm gần đây, chúng ta cũng đã
triển khai nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật của các nước tại Việt
Nam, trong đó có một số hoạt động lớn, có tính quốc tế như Liên hoan
phim châu Á - Thái Bình Dương, Tuần phim châu Âu, Festival Huế, Tuần lễ
văn hóa Nga ở Việt Nam, Triển lãm văn hóa - nghệ thuật ASEAN, các trại
điêu khắc quốc tế,... Đây là một bưóc phát triển mới, mở ra triển vọng
lớn để Việt Nam trở thành một địa chỉ văn hóa quen thuộc của sự giao lưu
văn hóa giữa các nước trong khu vực và quốc tế.
Nhiều văn bản hợp tác quốc tế về văn hóa với các nước và với các tổ chức quốc tế được ký kết và triển khai thực hiện.
|
Đẩy mạnh giao lưu nhân dân, sử dụng các công cụ văn hóa và thông tin đối ngoại trong quan hệ quốc tế... Ảnh: TCCS
|
Chúng ta cũng đã tạo được ngày càng
nhiều các sản phẩm thông tin đối ngoại để giới thiệu có sức thuyết phục
về diện mạo đổi mới, những thành tựu của Việt Nam với nhân dân các nước,
với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và với người nước ngoài ở
Việt Nam. Sự phối hợp giữa văn hóa với du lịch, hàng không, thương mại
trong các hoạt động ở nước ngoài, cả kinh tế, văn hóa, du lịch, thông
tin..., là một dấu hiệu mới, có tác dụng tốt, tạo nên sức mạnh chung và
qua đó, góp phần tăng cường hợp tác đầu tư kinh tế, thương mại.
Tuy vậy, nhiệm vụ mở rộng hợp tác quốc
tế về văn hóa vẫn còn một số mặt yếu kém, bất cập. So với yêu cầu và đòi
hỏi của sự nghiệp đổi mới, hội nhập và giao lưu quốc tế, công tác này
chưa đáp ứng được đầy đủ và chưa phát huy mạnh mẽ tiềm năng văn hóa von
có của dan tộc. Số công trình, tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật có
giá trị của ta được giới thiệu ra quốc tế còn quá ít, trong khi đó sản
phẩm văn hóa độc hại, phản động, không phù hợp với văn hóa và đặc tính
con người Việt Nam của nước ngoài lại xâm nhập nước ta khá lớn. Trong
giao lưu và hợp tác văn hóa, còn có biểu hiện thiếu chủ động, nhiều sơ
hở trong quản lý. Hoạt động giúp cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
hiểu biết về đất nước, về văn hóa Việt Nam chưa đạt yêu cầu và sự mong
đợi của đồng bào.
4. Do sức sống nội tại và bản lĩnh của
văn hóa Việt Nam, do đã từng trải nghiệm qua một quá trình lịch sử lâu
dài biết sàng lọc và tiếp thu các giá trị văn hóa từ bên ngoài vào Việt
Nam, và do đường lối chỉ đạo phù hợp với quy luật, nên từ những năm đổi
mới, cùng với quá trình hội nhập và giao lưu văn hóa quốc tế, nền văn
hóa đương đại Việt Nam đã trở nên phong phú, đa dạng và hiện đại hơn.
Một số giá trị văn hóa truyền thống được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp
hơn với thời đại và với sự phát triển đang vươn lên hiện đại hóa của
dân tộc ta.
Tuy vậy, từ kinh nghiệm lịch sử và từ
thực tiễn những năm gần đây, chúng ta cần đặc biệt chú ý đến tác động
tiêu cực của xu hướng toàn cầu hóa trên lĩnh vực văn hóa.
Toàn cầu hóa kinh tế, thông qua hợp tác
quốc tế, chuyển giao cống nghệ và các quá trình kinh doanh, quản lý, tổ
chức, thông qua tài trợ và đầu tư, thương mại..., một vài thế lực đã và
đang có mưu đồ sâu xa, thực hiện sự tấn công vào chính trị, văn hóa, xã
hội, đạo đức và tâm lý,... của đất nước ta.
Xuất hiện sự áp đặt vô hình một số giá
trị văn hóa ngoại lai vào đời sống văn hóa Việt Nam. Xuất hiện và len
lỏi phát triển vào văn hóa dân tộc những “giá trị” văn
hóa theo khuynh hướng xã hội công nghiệp hiện đại và mặt trái của kinh
tế thị trường như chủ nghĩa thực dụng kinh tế, lối sống tiêu thụ, hưởng
thụ, khát vọng tiền tài, tư tưởng kỹ trị và vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân cực
đoan, sự sùng ngoại và đua đòi những lối sống và thị hiếu thấp kém, xa
lạ, không phù hợp với dân tộc, những tệ nạn xã hội nguy hiểm như ma tuý,
mại dâm,...Thực tiễn đó cho chúng ta rút ra một bài học, một kinh
nghiệm quan trọng rằng, không thể xem thường những tác động tiêu cực của
sự tấn công, sự “áp đặt” văn hóa đó.
Thời gian qua, ở nước ta đã diễn ra
không ít sự đảo lộn các giá trị văn hóa, trong đó các giá trị văn hóa
tốt đẹp, truyền thống như trọng tình nghĩa, ưu tiên về mặt đạo đức, vị
tha, trung thực,... bị lấn lướt, xâm hại, sự lên ngôi của những giá trị
ngoại lai, xa lạ trong một bộ phận quần chúng, sự lộn xộn, lúng túng, bị
động, không bình yên trong đời sống tinh thần, trong lối sống và thị
hiếu, trong đạo đức, đặc biệt những biến động phức tạp của các lĩnh vực
tâm linh, tôn giáo,...
Toàn cầu hóa như một cơn lốc mạnh. Mặc
dầu đã có sự chuẩn bị, song chúng ta chưa lường hết được tác động phức
tạp của quá trình đó, vì vậy, văn hóa của chúng ta đang chịu những sức
ép, sự va đập mạnh và sâu, đang đứng trước những thử thách gay gắt chưa
từng có.
Tỉnh
táo nhận thức thực trạng và thách thức đó, có chiến lược và giải pháp
hữu hiệu để vượt qua nó, đứng vững và phát triển, đó là công việc to lớn
của toàn Đảng, toàn dân ta đối với nhiệm vụ xây dựng ríên văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
|
Nhận thức sâu sắc đặc điểm, thách thức
và quy luật đó của quá trình toàn cầu hóa, cần phải khẳng định rằng, để
xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
trong quá trình toàn cầu hóa, trước những thách thức và tác động phức
tạp của mặt trái toàn cầu hóa trên lĩnh vực văn hóa, chúng ta sẵn sàng
và chủ động mở cửa, hội nhập, hòa mình vào xu thế chung của thế giới
hiện đại, đồng thời đứng vững trên những nguyên tắc quan trọng, làm cơ
sở cho việc tranh thủ thời cơ, vượt qua trở ngại, thách thức và tự lực,
chủ động xây dựng văn hóa dân tộc bằng sức mạnh, bản lĩnh, cốt cách của
chính dân tộc ta.
Mở cửa, hội nhập, giao lưu và hợp tác
nhằm tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại,
đồng thời phải bảo vệ, bảo toàn các giá trị tốt đẹp, cao quý, bản sắc
dân tộc của nền văn hóa Việt Nam. Ở đây, trong văn hóa dân tộc thể hiện
phép biện chứng giữa sức mạnh nội sinh và năng lực tiếp nhận, đón nhận,
hay nói cách khác, phụ thuộc vào chính bản lĩnh, sức mạnh của dân tộc ta
trong tiến trình hội nhập và giao lưu quốc tế. "Bảo vệ bản sắc dân tộc
phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những
cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác".
Cần phải tiếp tục khẳng định đây là
nguyên tắc, đồng thời là bản lĩnh của dân tộc ta trong quá trình thực
hiện giao lưu văn hóa và hội nhập quốc tế. Ở đây, hội nhập và giao lưu
để vừa bảo vệ, làm bền vững hơn các bản sắc văn hóa, vừa làm phong phú
hơn, giàu có hơn, hiện đại hơn bản sắc đó và toàn bộ nền văn hóa của
chúng ta.
Để có thể tiếp thu những thành tựu, tinh
hoa, các giá trị văn hóa của bên ngoài mà vẫn giữ được chủ quyền và bản
sắc văn hóa dân tộc, làm đậm đà hơn cốt cách, tâm hồn dân tộc trong quá
trình, giao lưu, tiếp nhận, kinh nghiệm lịch sử lâu dài của dân tộc
Việt Nam đã chỉ ra rằng, các yếu tố nội sinh về văn hóa của chúng ta
phải giữ vai trò quyết định. Nội lực của chúng ta càng mạnh, chúng ta
càng có nhiều cơ hội và khả năng để tiếp nhận, chọn lọc và hợp tác, có
nghĩa là nội lực đó sẽ chỉ phối các quan hệ với các yếu tố ngoại sinh,
quyết định chọn lọc và tiếp nhận các yếu tố đó, đồng thời có đủ trình
độ, bản lĩnh để "đồng hoá" các yếu tố đến từ bên ngoài trở thành nhân tố
của chính nền văn hóa dân tộc, thành chất xúc tác cho sự phát triển
hiện đại hơn nền văn hóa đó.
Như vậy, hội nhập và giao lưu văn hóa
không phải là phép cộng các yếu tố văn hóa bên trong và các yếu tố văn
hóa bên ngoài, mà phải là quá trình tích hợp biện chứng, sinh động,
nhuần nhuyễn để tạo ra một nền văn hóa thuần Việt Nam. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh thì: Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để
tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn
hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần
“thuần tuý Việt Nam”.
Bản chất thực sự tốt đẹp của giao lưu
văn hóa quốc tế, giữa các nền văn hóa với nhau thể hiện ở sự đối thoại
bình đẳng và rộng mở. Thế giới đã gặp phải nhiều loại xung đột khác
nhau: quyết liệt, dai dẳng, mất và còn, phải đương đầu với nhiều xung
đột mới gay gắt hơn, tàn nhẫn hơn, đau đớn hơn do các thế lực hiếu
chiến, cường quyền gây ra. Song, như UNESCO đã khẳng định về bản chất
giữa các nền văn hóa không có xung đột mà chỉ có đối thoại mà thôi. Toàn
cầu hóa góp phần làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, làm phong phú
thêm các nền văn hóa. Chính sự đối thoại cởi mở và bình đẳng là nguồn
lực tạo ra sự phong phú và tính độc đáo của mỗi nền văn hóa. Nhận thức
sâu sắc và vận dụng một cách chủ động tính quy luật đặc thù đó của hội
nhập và giao lưu văn hóa, chúng ta cần kiên trì xác định nguyên tắc hợp
tác bình đẳng, đối thoại cởi mở để vừa cho và vừa nhận văn hóa. Nguyên
tắc này không phải là kết quả chủ quan của người lãnh đạo văn hóa, mà về
bản chất, là việc đúc kết từ bản thân quy luật đặc thù của sự tồn tại
và phát triển văn hóa nước ta, như các Nghị quyết của Đảng đã xác định
văn hóa Việt Nam là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền
văn minh thế giới để “không ngừng hoàn thiện mình”.
Trên cơ sở nguyên tắc đó, chúng
ta hoàn toàn không chấp nhận một mưu đồ lợi dụng toàn cầu hòa để áp đặt
những giá trị của các nước lớn, của các thế lực cường quyền vào nước
ta. Đồng thời, trong quá trình hợp tác và giao lưu, chúng ta chủ trương
loại bỏ những yếu tố văn hóa ngoại lai, không phù hợp và trái với văn
hóa dân tộc, với khát vọng vì sự phát triển của con người Việt Nam thời
kỳ hiện đại, từ đó, chúng ta kiên quyết "ngăn ngừa sự xâm nhập các sản
phẩm văn hóa phản động, đồi trụy" từ bên ngoài vào nước ta.
Ở đây, tư cách chủ động hội nhập và giao
lưu văn hóa là một đòi hỏi cao đối với quá trình chỉ đạo hợp tác quốc
tế về văn hóa, và đó là một cuộc đấu tranh không hề đơn giản để một mặt,
chống lại sự áp đặt văn hóa của các thế lực cường quyền, và mặt khác,
phê phán và khắc phục căn bệnh tự ti, bắt chước, lai căng, hoa mắt trước
một số sản phẩm văn hóa của nước ngoài.
Những định hướng và yêu cầu trên là cơ
sở để chúng ta thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, thực
hiện nhiệm vụ hợp tác và giao lưu văn hóa trong quá trình hội nhập, toàn
cầu hóa.
GS. TS. Đinh Xuân Dũng