Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đưa tới nền kinh tế thông minh. Đây sẽ là bước
ngoặt, bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại. Tuy nhiên,
nó cũng tạo ra những thách thức lớn đối với nhiều quốc gia, nhiều đối
tượng xã hội, trên nhiều lĩnh vực. Các thành tựu khoa học - công nghệ
trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm cho tài nguyên thiên nhiên,
lao động phổ thông giá rẻ ngày càng mất lợi thế. Việc làm rõ những vấn
đề đặt ra và đưa ra những định hướng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư thời
gian tới là cấp bách và thiết thực.
Một số nét về cách mạng công nghiệp lần thứ tư và dự báo những ảnh hưởng của nó đối với thế giới
Khái
niệm “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” (hay công nghiệp 4.0) lần đầu
tiên được đưa ra ở Cộng hòa liên bang Đức năm 2011 tại cuộc Hội chợ công
nghệ ở Han-nô-vơ. Năm 2012, khái niệm này được sử dụng để đặt tên cho
một chương trình hỗ trợ phát triển công nghệ cao của Chính phủ Đức. Năm
2016, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được lựa chọn làm chủ đề của Diễn
đàn Kinh tế thế giới tại Đa-vốt, Thụy Sĩ. Sau đó, khái niệm này được sử
dụng phổ biến để chỉ cuộc cách mạng công nghiệp mới, dù mới bắt đầu
nhưng đã có những bước tiến mạnh mẽ, những thành tựu to lớn, có những
ảnh hưởng sâu rộng tới mọi lĩnh vực trên toàn cầu.
Tổng
hợp những kết quả nghiên cứu có thể thấy rằng: Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư được hình thành trên nền tảng những thành tựu của cách mạng công
nghiệp lần thứ ba và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ; là
sự tích hợp của nhiều loại hình công nghệ và những thành tựu mới của
nhiều lĩnh vực nghiên cứu vật lý, hóa học, sinh học, xóa nhòa ranh giới
giữa các lĩnh vực khoa học này. Trong đó, công nghệ nền tảng, đặc trưng
của cách mạng công nghiệp lần thứ tư là công nghệ số; các lĩnh vực mũi
nhọn, đặc trưng của công nghiệp 4.0 là trí tuệ nhân tạo; công nghệ thông
tin, in-tơ-nét kết nối vạn vật, điện toán đám mây, cơ sở dữ liệu lớn,
Blockchain; công nghệ na-nô, công nghệ gien, công nghệ vật liệu, công
nghệ in 3D trong lĩnh vực chế tạo...
Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đưa đến những hệ thống sản xuất với các máy
móc, thiết bị thông minh, dây chuyền sản xuất thông minh, hệ thống quản
trị thông minh; tạo ra nền công nghiệp thông minh, nền nông nghiệp thông
minh, dịch vụ thông minh, hệ thống kết cấu hạ tầng điện, giao thông,
cấp, thoát nước thông minh, các phương tiện vận tải thông minh, hệ thống
thương mại, dịch vụ thông minh, tiêu dùng thông minh. Nền kinh tế thật
sự là nền kinh tế tri thức - thông minh. Tri thức, thành tựu khoa học -
công nghệ, các ý tưởng đổi mới, sáng tạo trở thành động lực chính cho sự
tăng trưởng, phát triển kinh tế.
Mặc
dù cách mạng công nghiệp lần thứ tư mới ở giai đoạn đầu tiên, chưa thể
hiện hết những khả năng phát triển; tuy nhiên, những đánh giá, dự báo
trên thế giới hiện nay đều cho rằng, cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ
phát triển với tốc độ nhanh hơn nhiều lần so với các cuộc cách mạng
công nghiệp trước đây, xóa nhòa ranh giới giữa khoa học và công nghệ; sẽ
có những tác động mạnh mẽ, sâu sắc, làm thay đổi căn bản từ phương thức
sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, đến chính trị và an ninh thế giới, tổ
chức và sinh hoạt xã hội của con người trong từng gia đình, từng quốc
gia, tới toàn cầu.
Trí
tuệ nhân tạo, công nghệ na-nô, công nghệ vật liệu mới sẽ tạo ra những
vật liệu mới với các thuộc tính vượt trội so với các vật liệu hiện nay,
làm thay đổi công nghệ chế tạo và nâng cao chất lượng các sản phẩm. Trí
tuệ nhân tạo, những phần mềm thiết kế theo thuật toán, kết hợp với in 3D
đã tạo ra cuộc các mạng trong thiết kế sản phẩm; có khả năng thiết kế
những sản phẩm phức tạp một cách chính xác trong thời gian ngắn. Người
máy thông minh, công nghệ in 3D làm cho việc chế tạo, lắp ráp sản phẩm
được thực hiện hoàn toàn tự động, cực kỳ chính xác, tiết kiệm tối đa
nguyên liệu, hầu như không có sản phẩm hỏng. Toàn bộ quy trình sản xuất
được theo dõi, kiểm soát chặt chẽ, tất cả các vật tư, linh kiện được
cung ứng chính xác, hoàn toàn tự động nhờ hệ thống mạng kết nối vạn
vật.
Các
công nghệ mới này làm thay đổi căn bản phương thức phân phối, tiêu dùng,
cách thức tổ chức làm việc của con người. Công nghệ mới cho phép có thể
cung cấp mọi hàng hóa, dịch vụ cần thiết cho những người cần đến chúng
vào đúng thời gian, địa điểm cần thiết. Thương mại điện tử sẽ dần thay
thế cho thương mại truyền thống. Quan niệm về văn phòng làm việc cũng sẽ
thay đổi. Rô-bốt gắn trí tuệ nhân tạo sẽ thay thế con người trong nhiều
công việc ở cơ quan, bệnh viện, trong gia đình, có thể phục vụ cho con
người ở mọi lúc, mọi nơi; thay thế con người ở những nơi độc hại, những
nơi con người không thể tới được, làm được.
Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đưa tới nền kinh tế thông minh, tất yếu cũng
sẽ đưa tới sự ra đời những ngôi nhà thông minh, quốc gia thông minh, xã
hội thông minh. Điều này tất yếu đòi hỏi phải xây dựng chính phủ thông
minh, quản trị quốc gia thông minh. Đây sẽ là bước ngoặt, bước tiến lớn
trong lịch sử phát triển của nhân loại.
Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đồng thời tạo ra những thách thức lớn đối
với nhiều quốc gia, nhiều đối tượng xã hội, trên nhiều lĩnh vực. Các
thành tựu khoa học - công nghệ trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
làm cho tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông giá rẻ ngày càng mất
lợi thế. Sự chênh lệch về trình độ phát triển, khoảng cách giàu nghèo
giữa các quốc gia trên thế giới có xu hướng mở rộng thêm. Nguy cơ thất
nghiệp đối với những lao động phổ thông, không được đào tạo làm cho sự
phân hóa giàu nghèo, sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các tầng
lớp xã hội trong một nước cũng có xu hướng ngày càng tăng, làm phát
sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định xã hội.
Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư làm xuất hiện nhiều vấn đề mới, tác động tới
từng cá nhân, tới chính trị, an ninh của các quốc gia và trên quy mô
toàn cầu. Một khối lượng thông tin khổng lồ, đa dạng, đa chiều, nhiều
quan điểm, khuynh hướng tư tưởng khác nhau được đưa tới từng cá nhân ở
mọi lúc, mọi nơi. Đồng thời, bối cảnh mới cũng làm xuất hiện nhiều hình
thức tội phạm mới, sử dụng công nghệ cao để trốn, lậu thuế, lừa đảo,
chiếm đoạt tài sản của người khác, những hình thức trước kia chưa từng
có, gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng khó phát hiện, kiểm soát, ngăn chặn.
Những tiến bộ khoa học - công nghệ được ứng dụng trong các lĩnh vực
quốc phòng, an ninh, tạo ra những vũ khí, khí tài, phương tiện chiến
tranh mới hiện đại hơn, chính xác hơn, sức công phá mạnh hơn, sức hủy
diệt lớn hơn, nguy hiểm hơn; đưa chiến tranh lên vũ trụ, lên không gian
mạng; đánh sập, làm rối loạn mạng quản lý, điều hành hoạt động của hệ
thống tài chính, tiền tệ, hệ thống điện, thông tin của một quốc gia;
chiếm quyền chỉ huy các loại vũ khí, làm tê liệt khả năng tấn công,
phòng thủ của lực lượng vũ trang của một đất nước... gây ra những hậu
quả to lớn không thể lường hết.
Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư tạo cơ hội phát triển cho mọi quốc gia, nhất
là các nước đang phát triển, khi biết tận dụng và tận dụng được những
thành tựu khoa học - công nghệ mới, có thể “đi tắt, đón đầu”; đồng thời
cũng có thể làm cho các nước đang và kém phát triển sẽ tụt hậu ngày càng
xa hơn nếu không tận dụng được cơ hội này. Sự cạnh tranh giữa các nước
trên thế giới gay gắt, quyết liệt hơn; tương quan sức mạnh giữa các
nước, các khu vực sẽ có những thay đổi, đảo lộn. Bởi vậy, hiện nay, các
nước đều xem xét lại, điều chỉnh chiến lược phát triển của mình. Một số
nước đã xây dựng các chiến lược phát triển mới.
Những vấn đề đặt ra với công nghiệp hóa theo hướng hiện đại ở nước ta
Sau
hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đã có sự phát triển
vượt bậc, đạt được những thành tựu to lớn, từ một nước nghèo, kém phát
triển đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp.
Trong 30 năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao, trung bình 6%
-7% năm. Quy mô, trình độ công nghệ chung của nền kinh tế, của các ngành
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, của hệ thống kết cấu hạ tầng đều
tăng lên; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực. Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện, phù hợp với yêu cầu
của nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế. Việt Nam đã thu
hút được những nguồn vốn lớn từ trong và ngoài nước, tiếp thu được nhiều
thành tựu khoa học - công nghệ của thế giới. Các ngành kinh tế của đất
nước, công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đều phát triển cả về quy mô và
trình độ khoa học - công nghệ. Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ “dân số
vàng”, có nền giáo dục phát triển từ nhiều năm qua, đã phổ cập trung học
cơ sở, đang hướng tới phổ cập trung học phổ thông; có đội ngũ trí thức,
cán bộ khoa học đông đảo, được đào tạo từ nhiều nguồn, trong đó có
những nhà khoa học, chuyên gia có trình độ cao ở trong nước và người
Việt Nam ở nước ngoài.
Tuy
nhiên, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam còn chưa hoàn thiện. Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn
chủ yếu theo chiều rộng, dựa nhiều vào khai thác tự nhiên và lao động
phổ thông giá rẻ, chuyển đổi chậm. Các nguồn lực vốn, lao động, đất đai,
tài nguyên khoa học - công nghệ còn chưa được huy động, phân bổ hợp lý,
sử dụng có hiệu quả. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
của nền kinh tế, của doanh nghiệp và của nhiều sản phẩm của Việt Nam còn
thấp. Nền công nghiệp có bước phát triển, nhưng quy mô còn nhỏ, trình
độ còn thấp. Sản xuất công nghiệp chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá trị
gia tăng thấp; trình độ công nghệ còn lạc hậu, phần lớn là của thời kỳ
cách mạng công nghệ 2.0, chậm được đổi mới; năng suất lao động của Việt
Nam chưa bằng 1/5 của Xin-ga-po, 1/3 của Thái Lan, 1/2 của Phi-líp-pin;
năng lực cạnh tranh, khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu rất hạn
chế. Nội lực của nền công nghiệp yếu, phụ thuộc nhiều vào các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); tỷ lệ nội địa hóa trong
sản phẩm do doanh nghiệp FDI sản xuất thấp. Việc cơ cấu lại các ngành
sản xuất công nghiệp còn chậm. Công nghiệp hỗ trợ kém phát triển; chưa
có những ngành công nghiệp mũi nhọn có vai trò dẫn dắt nền kinh tế;
nhiều ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển nhưng không đạt được mục
tiêu đề ra. Các sản phẩm công nghệ cao, như điện thoại di động, máy
tính, các linh kiện, thiết bị điện tử phần lớn là do các doanh nghiệp
FDI sản xuất. Công nghệ thông tin, viễn thông phát triển nhanh nhưng chủ
yếu là nhập khẩu thiết bị để kinh doanh dịch vụ. Công nghiệp phần mềm
khá phát triển cũng chỉ chủ yếu là gia công cho nước ngoài. Hệ thống kết
cấu hạ tầng chưa đồng bộ. Chất lượng nghiên cứu, đào tạo của các viện
nghiên cứu khoa học, các trường đại học, dạy nghề còn hạn chế; ít có
công trình được công bố, ít sáng chế được bảo hộ quyền sở hữu, ít đại
học được xếp hạng cao trong khu vực; thiếu lao động có tay nghề cao,
thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, thiếu các chuyên gia lành nghề,
nhất là thiếu các tổng công trình sư có khả năng thiết kế, chế tạo những
sản phẩm công nghiệp lớn, trình độ cao,...
Thực trạng đó đặt ra những vấn đề sau đối với công nghiệp hóa theo hướng hiện đại ở nước ta hiện nay:
1- Vấn đề nhận thức, quan điểm
Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ diễn ra với tốc độ rất nhanh, quy mô rất
lớn, tạo ra những thay đổi sâu rộng trong mọi lĩnh vực, vì vậy, nếu bỏ
lỡ, không tận dụng được thời cơ này thì đất nước sẽ tụt hậu xa hơn so
với các nước, những hậu quả do nó gây ra sẽ rất to lớn. Đây là vấn đề mà
toàn Đảng, toàn dân cần phải nhận thức sâu sắc, quyết tâm nắm bắt thời
cơ, phải xem đây là vấn đề hàng đầu, sống còn đối với đất nước hiện nay.
Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư tác động tới tất cả các đối tượng, các lĩnh
vực của xã hội, đồng thời có sự tham gia của tất cả các đối tượng, các
lĩnh vực xã hội. Trong đó, có thể tổng hợp lại, khái quát thành 3 lĩnh
vực (3 khối) lớn: Lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và lĩnh vực quản lý nhà nước.
Ba lĩnh vực này có quan hệ gắn bó, ảnh hưởng và tác động lẫn nhau. Sản
xuất là lĩnh vực trung tâm, là nơi trực tiếp diễn ra, thể hiện những
diễn biến, quá trình vận động, phát triển, những kết quả, thành tựu của
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khoa học - công nghệ, giáo dục - đào
tạo giữ vị trí then chốt, là khâu đột phá để sản xuất phát triển. Quản
lý nhà nước có vai trò quyết định, tạo ra môi trường, động lực thúc đẩy
phát triển sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào
tạo. Cả lĩnh vực quản lý nhà nước và khoa học - công nghệ, giáo dục -
đào tạo đều phải hướng vào yêu cầu đáp ứng phục vụ tốt nhất mục tiêu
phát triển sản xuất. Sản xuất trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư chỉ
phát triển được trên cơ sở các thành tựu khoa học - công nghệ, giáo dục
- đào tạo và quản lý nhà nước phù hợp.
2- Vấn đề đổi mới nội dung công nghiệp hóa
Thực
hiện công nghiệp hóa trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
trước hết, phải định hướng lại chính sách (hay chiến lược) công nghiệp
hóa, vừa phát triển theo chiều rộng để tận dụng, phát huy tiềm năng, lợi
thế của nền nông nghiệp nhiệt đới và của lực lượng lao động đông đảo,
giá rẻ của thời kỳ “dân số vàng”; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và
các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, như dệt may, giầy da; vừa
phải chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu dựa trên khoa học - công
nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao để nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh. Định hướng tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế
đều phải đổi mới công nghệ; chuyển mạnh sang sử dụng những công nghệ ở
trình độ cách mạng công nghiệp lần thứ tư; ứng dụng những thành tựu mới
nhất của công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ in 3D, công
nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, in-tơ-nét kết nối vạn vật, rô-bốt, các
máy móc, thiết bị thông minh... vào sản xuất, kinh doanh và quản lý sản
xuất, kinh doanh. Tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế phải từng bước
chuyển sang tự động hóa, tiến tới thông minh hóa, nông nghiệp thông
minh, công nghiệp thông minh, dịch vụ vận tải thông minh, ngân hàng
thông minh...
Đổi
mới cơ cấu kinh tế, nhất là cơ cấu công nghiệp, phù hợp với xu hướng
phát triển của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo yêu cầu đó, những
ngành, lĩnh vực kinh tế cần tập trung phát triển sẽ bao gồm: các ngành
nông, lâm, ngư nghiệp gắn với phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm,
ngư nghiệp; công nghệ thông tin, viễn thông; công nghiệp chế tạo sản
xuất các thiết bị điện tử, tin học, các loại máy móc, thiết bị, các
rô-bốt, dây chuyền sản xuất tự động cho các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, sản xuất các phương tiện vận tải đường bộ, đường thủy,
đường không, các thiết bị y tế; các thiết bị, dụng cụ cho gia đình...;
công nghiệp năng lượng, nhất là các dạng năng lượng tái tạo, năng lượng
sạch, công nghiệp luyện kim, công nghiệp vật liệu sản xuất các loại vật
liệu mới, công nghiệp môi trường; phát triển công nghiệp hỗ trợ, thúc
đẩy phân công, chuyên môn hóa sản xuất, đồng thời tăng cường liên kết,
hợp tác giữa các ngành, lĩnh vực; mở rộng khả năng, cơ hội để các doanh
nghiệp Việt Nam tham gia sâu, có giá trị lớn, có vị trí vững chắc trong
chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển các ngành, các sản phẩm lưỡng dụng
vừa phục vụ cho phát triển kinh tế, vừa có thể đáp ứng yêu cầu của quốc
phòng, an ninh.
Phát
triển các cụm, ngành công nghiệp, bao gồm các doanh nghiệp có quan hệ
chặt chẽ với nhau về công nghệ, về sản phẩm chế tạo, trong đó doanh
nghiệp sản xuất sản phẩm cuối cùng giữ vai trò trọng tâm, các doanh
nghiệp cung cấp các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ trước và sau cho doanh
nghiệp sản xuất sản phẩm cuối cùng. Tập trung xây dựng, phát triển đồng
bộ hệ thống kết cấu hạ tầng. Cần đặc biệt phát triển kết cấu hạ tầng
thông tin, thương mại điện tử, viễn thông, in-tơ-nét, cơ sở dữ liệu
lớn,... đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng,
an ninh.
Công
nghiệp hóa luôn gắn với đô thị hóa. Trong bối cảnh mới, cùng với yêu cầu
về nâng cao chất lượng quy hoạch, xây dựng đô thị xanh, sạch, đẹp, văn
minh thì cần định hướng xây dựng đô thị thông minh, vận hành và quản lý
thông minh.
3- Vấn đề phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, nâng cao năng lực sáng tạo, chất lượng nguồn nhân lực
Đây
là những yếu tố then chốt, tạo ra sự phát triển đột phá, là đặc trưng
của phương thức phát triển mới trong nền kinh tế tri thức - thông minh.
Tăng cường đầu tư của toàn xã hội, của Nhà nước, của các doanh nghiệp,
các tổ chức trong và ngoài nước cho phát triển khoa học - công nghệ; đổi
mới phương thức quản lý hoạt động khoa học - công nghệ; thực hiện quyền
tự chủ đầy đủ cho các tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ
khoa học - công nghệ; gắn kết chặt chẽ hoạt động khoa học - công nghệ
với thực tiễn cuộc sống, với nhu cầu phát triển, đổi mới của các ngành,
lĩnh vực. Phát triển thị trường khoa học - công nghệ để trao đổi, mua
bán, đưa các thành tựu nghiên cứu khoa học - công nghệ vào sản xuất.
Định hướng nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào những
lĩnh vực trung tâm, mũi nhọn của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, như
trí tuệ nhân tạo, điện tử, tin học, công nghệ thông tin, truyền thông,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng tái
tạo... Xây dựng những viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm hiện đại cho các
lĩnh vực quan trọng này. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp, nhất là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty, các doanh nghiệp
lớn nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ; khuyến khích mọi
ý tưởng đổi mới, sáng tạo trong doanh nghiệp, trong các cơ quan, đơn
vị, tổ chức, kinh tế, xã hội...
Đổi
mới mô hình tổ chức, quản lý, chương trình, phương pháp giáo dục - đào
tạo ở tất cả các cấp học, ngành học theo chuẩn quốc tế, cung cấp nguồn
lao động chất lượng cao, có kỹ năng và năng lực sáng tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa đất nước trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Định hướng phát triển giáo dục - đào tạo gắn với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội đất nước, với định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực
công nghệ cao, sản xuất thông minh của nền kinh tế tri thức. Quy hoạch
lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học, đào tạo nghề ở các ngành, lĩnh vực
công nghệ, xây dựng một số cơ sở đạt trình độ quốc tế. Khuyến khích các
doanh nghiệp đào tạo lực lượng, lao động có tay nghề cao. Chú trọng đào
tạo đội ngũ doanh nhân có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng quản lý, quản
trị hiện đại, ngang tầm với doanh nhân ở các nước, đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp hiện nay. Thu hút được các
chuyên gia, cán bộ khoa học - công nghệ có trình độ cao của nước ngoài
và người Việt Nam ở nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam.
4- Vấn đề đổi mới, hoàn thiện thể chế
Việc
đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trong những năm tới đòi hỏi tập trung vào tạo khung pháp luật đầy
đủ, đồng bộ cho những ngành, lĩnh vực mới, những tổ chức, phương thức
sản xuất, kinh doanh mới, những thị trường sản phẩm mới; đưa vào sử dụng
những loại vật liệu mới, những sản phẩm mới.
Cần
phải có những cơ chế, chính sách ưu tiên, hỗ trợ, khuyến khích các nhà
đầu tư, các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, các sản phẩm
công nghệ cao, đặc trưng của cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát
triển nền công nghiệp thông minh, nông nghiệp thông minh, dịch vụ thông
minh; thúc đẩy việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế.
Việc đổi mới, hoàn thiện thể chế phải thúc đẩy hình thành, phát triển
hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo, để tạo môi trường, điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp khởi nghiệp, chuyển những ý tưởng sáng tạo
mới thành sản phẩm cung cấp cho thị trường; thúc đẩy, hỗ trợ đổi mới
doanh nghiệp nhà nước, phát triển kinh tế tư nhân, hình thành những tập
đoàn kinh tế lớn tham gia, có vị trí vững chắc trong chuỗi giá trị toàn
cầu; thu hút có chọn lọc FDI, ưu tiên thu hút những dự án đầu tư có công
nghệ cao ở những lĩnh vực mũi nhọn của cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, liên kết, chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước, tạo cơ
hội cho doanh nghiệp trong nước tiếp cận, tiếp thu những thành tựu mới
của khoa học - công nghệ, tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu.
Việc
đổi mới, hoàn thiện thể chế phải tạo ra và hoàn thiện khuôn khổ pháp
luật cho việc đổi mới cơ chế quản lý phát triển khoa học - công nghệ,
giáo dục - đào tạo; đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút các nguồn lực xã hội
vào phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo; thực hiện cơ
chế tự chủ của các tổ chức khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo;
hoạt động của thị trường sản phẩm khoa học - công nghệ, nhất là đối với
những sản phẩm mới do cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra; bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ với các sản phẩm nghiên cứu, sáng tạo. Việc đổi
mới, hoàn thiện thể chế cần phải có những cơ chế, chính sách hỗ trợ,
khuyến khích, định hướng nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa
học - công nghệ vào những lĩnh vực khoa học, những công nghệ mũi nhọn,
đặc trưng của cách mạng công nghiệp lần thứ tư; định hướng đào tạo vào
đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao cho những ngành, lĩnh
vực này; cần phải có cơ chế khuyến khích, đãi ngộ thỏa đáng đối với các
chuyên gia, cán bộ khoa học - công nghệ có trình độ cao, những người có
kết quả nghiên cứu, sáng tạo có giá trị cao; có cơ chế, chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học - công nghệ trẻ, có tiềm năng ở trong và
ngoài nước, thu hút chuyên gia khoa học - công nghệ là người Việt Nam ở
nước ngoài về cống hiến cho đất nước...
5- Vấn đề đổi mới quản trị nhà nước, xây dựng chính phủ điện tử, quản trị thông minh
Trong
đổi mới quản trị nhà nước thì vấn đề trực tiếp nhất, quan trọng nhất là
đổi mới quản trị của chính phủ, xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ
quản trị thông minh. Để làm được điều này, có rất nhiều công việc phải
thực hiện, nhưng có thể tổng hợp lại là: Thứ nhất, xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, hệ thống mạng kết nối chính
phủ tới tất cả các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp, các cơ quan,
đơn vị, thậm chí tới từng hộ gia đình, từng người dân; xây dựng hệ
thống cơ sở dữ liệu về từng người dân, từng hộ gia đình, từng cơ quan,
đơn vị, tới tất cả các ngành, các địa phương; tất cả các văn bản chỉ
đạo, các báo cáo, số liệu về tình hình của các cấp, các ngành, các địa
phương... Thứ hai, cần đổi mới tổ chức bộ máy, hoàn thiện chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước theo hướng tinh gọn, hợp
lý, phù hợp với yêu cầu, chức năng, quản lý nhà nước nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và với điều kiện hệ thống quản lý đã
được tin học hóa, được trang bị những thiết bị thông tin, hệ thống mạng
hoàn chỉnh, hiện đại cho phép mở rộng khả năng theo dõi, nắm bắt tình
hình, phân tích, đánh giá thông tin. Thứ ba, xây dựng đội ngũ
cán bộ công chức, viên chức các cơ quan quản lý nhà nước có phẩm chất
đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lý cao. Đặc biệt,
trong bối cảnh mới, công chức, viên chức phải làm chủ được các công cụ,
phương tiện hiện đại trong hoạt động quản lý; nhạy bén với cái mới, ủng
hộ cái mới và có ý tưởng đổi mới, sáng tạo để nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác của mình./.
PGS.TS. Nguyễn Văn Thạo
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
Nguồn: Tạp chí Cộng sản