TÀI LIỆU TUYÊN TRUYỀN VỀ MỨC AN TOÀN PHƠI NHIỄM
TRƯỜNG ĐIỆN TỪ CỦA CÁC TRẠM THÔNG TIN DI ĐỘNG (BTS)
Tài liệu do Bộ Thông tin và Truyền thông cung cấp về mối liên quan giữa sóng điện tử của các trạm thu phát thông tin di động (BTS) và sức khỏe con người.
Hiện nay, trên thế giới có 2 hệ thống điện thoại di động thông dụng, đó là hệ thống thông tin di động sử dụng công nghệ GSM và hệ thống thông tin di động sử dụng công nghệ CDMA. Các hệ thống GSM được áp dụng rộng rãi ở trên 210 nước trên toàn thế giới, phục vụ gần 2,9 tỷ thuê bao (tính đến hết năm 2007, số liệu tại trang web http://www.gsmworld.com ).
Các hệ thống CDMA cũng đã phục vụ cho khoảng 450 triệu thuê bao (tính đến tháng 03/2008, số liệu tại trang web CDMA Worldwide, www.cdg.org ). Với số lượng thuê bao lớn như vậy nên tại các thành phố lớn trên thế giới, không có cách nào khác là xây dựng các trạm thu phát theo cấu trúc tế bào (tên tiếng Anh là cell, được hiểu là một khu vực địa lý, mỗi cell được phục vụ bởi một trạm thu phát), với mật độ cao để đảm bảo vùng phủ sóng và chất lượng dịch vụ.
Ở Việt Nam, các trạm thông tin di động ở Việt Nam đều sử dụng các công nghệ này. Tuy nhiên, từ cuối năm 2004 đến nay có một số ý kiến lo ngại về ảnh hưởng của sóng điện từ của các trạm thu phát sóng thông tin di động đối với sức khỏe con người sống gần trạm.
Sau đây là phần tổng hợp một số nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ của sóng điện từ của các trạm thu phát thông tin di động và sức khoẻ con người; các chính sách quản lý chuyên ngành của Bộ Thông tin và Truyền thông (trước đây là Bộ Bưu chính, Viễn thông) để đảm bảo sự an toàn cho người dân và cũng là đảm bảo phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
1. Về mối quan hệ giữa sóng điện từ của các trạm thu phát sóng điện thoại di động và sức khoẻ con người
Về ảnh hưởng của sóng điện từ nói chung:
Trong môi trường xung quanh chúng ta luôn tồn tại sóng điện từ trường. Sóng điện từ trường có thể sinh ra từ rất nhiều nguồn khác nhau, như từ sự hoạt động của máy móc công nghiệp, thiết bị điện, va chạm các vật thể, nguồn điện, máy phát sóng radio....
Việc nghiên cứu ảnh hưởng của sóng điện từ trường tới sức khỏe con người đã được nhiều tổ chức của thế giới nghiên cứu từ trước đây, ví dụ như:
- Các nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO – World Health Orgnization): bắt đầu từ năm 1996 WHO cũng thực hiện các chương trình nghiên cứu nhằm xác định các ảnh hưởng có thể của trường điện từ tần số vô tuyến trong dải tần đến 300 GHz đến sức khoẻ con người và đề ra các biện pháp hạn chế.
- Nghiên cứu của Ủy ban Quốc tế về phòng chống Bức xạ phi ion hoá (ICNIRP – International Commission on Non-ionizing Radiation Protection): các nghiên cứu tập trung vào việc xác định ảnh hưởng và đề ra các giới hạn ảnh hưởng cho phép, hướng dẫn tuân thủ.
- Nghiên cứu của Liên minh Viễn thông Quốc tế, lĩnh vực Viễn thông: các nghiên cứu về ảnh hưởng của trường điện từ thuộc trách nhiệm của Nhóm nghiên cứu số 5 (ITU-T Study Group 5). Các nghiên cứu bắt đầu được thực hiện từ năm 1996 với mục đích hướng dẫn thực hiện để đảm bảo hạn chế ảnh hưởng trong lĩnh vực viễn thông...
Theo kết quả nghiên cứu của các tổ chức nêu trên, sóng điện từ tùy theo cường độ, tần số, khoảng cách, mức độ che chắn… mà có thể có ảnh hưởng nhất định đến sức khoẻ con người; đồng thời các kết quả nghiên cứu cũng xác định được mức độ an toàn (gọi là mức phơi nhiễm trường điện từ an toàn) đối với khu vực sinh sống người dân, khu vực làm việc và khuyến nghị cần có các biện pháp quản lý để đảm bảo an toàn hơn cho khu dân cư.
Về ảnh hưởng của sóng vô tuyến thông tin di động:
Ảnh hưởng của sóng vô tuyến thông tin di động được Tổ chức Y tế thế giới nêu tương đối rõ trong báo cáo của mình (tài liệu WHO Fact sheet N0193 Revised June 2000: Electromagnetic fields and public health – mobile telephones and their base stations).
Tần số hoạt động của các hệ thống điện thoại di động hiện nay trong khoảng từ 450 MHz đến 1800 MHz, sóng vô tuyến này không phải là bức xạ ion hoá như các tia X hoặc tia gamma, không gây ra hiện tượng ion hoá hoặc phóng xạ trong cơ thể.
Trường sóng vô tuyến thâm nhập vào các mô với độ sâu tuỳ thuộc vào tần số - tới một cm tại tần số của sóng thông tin di động. Năng lượng vô tuyến được cơ thể hấp thụ và tạo thành nhiệt, nhưng tiến trình điều hoà nhiệt thông thường của cơ thể sẽ tải nhiệt này đi. Rõ ràng các ảnh hưởng của sóng vô tuyến đến sức khoẻ liên quan đến sự sinh nhiệt này, nhưng với mức năng lượng sóng vô tuyến quá thấp thì không thể gây ra sự tăng nhiệt và không có nghiên cứu nào cho thấy có ảnh hưởng có hại cho sức khoẻ tại các mức phơi nhiễm dưới các giới hạn theo hướng dẫn của các tổ chức quốc tế.
Về các nguy cơ ảnh hưởng khác của sóng vô tuyến thông tin di động, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng đã nêu trong báo cáo như sau:
- Ung thư: các bằng chứng khoa học hiện tại cho thấy phơi nhiễm trường sóng vô tuyến, như các sóng phát từ máy điện thoại di động và trạm thu phát của chúng, dường như không gây ra và không thúc đẩy phát triển ung thư.
- Các nguy cơ cho sức khoẻ khác: Các nhà khoa học đã báo cáo về các ảnh hưởng khác về trong việc sử dụng máy điện thoại di động như: thay đổi trong hoạt động của não, thời gian phản ứng và giấc ngủ. Những ảnh hưởng này là nhỏ, không rõ ràng và đáng kể tới sức khoẻ. Nhiều nghiên cứu vẫn đang tiếp tục để khẳng định về những ảnh hưởng này.
- Can nhiễu điện từ trường: Máy điện thoại di động được dùng gần một vài thiết bị y tế có khả năng gây can nhiễu cho các thiết bị này, cũng tương tự có khả năng can nhiễu của thiết bị di động đến các thiết bị điện tử trên máy bay.
WHO cũng nhận thấy có nhu cầu nghiên cứu để đánh giá tốt hơn về nguy cơ ảnh hưởng trên.
Kết luận của Tổ chức Y tế thế giới (được đưa ra trong tài liệu - WHO Fact sheet N0304 May 2006: Electromagnetic fields and public health – Base stations and wireless technologies) là: “Qua xem xét mức độ phơi nhiễm rất thấp và các kết quả nghiên cứu thu thập tới nay, chưa có bằng chứng khoa học thuyết phục nào cho thấy tín hiệu tần số vô tuyến yếu từ các trạm thu phát vô tuyến và các mạng vô tuyến gây ra những ảnh hưởng có hại cho sức khoẻ”
Tại Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ đã có công văn số 616/BKHCN-KHCN ngày 20/3/2006 gửi Văn phòng Chính phủ khẳng định cho đến nay chưa có bằng chứng khoa học cho thấy sóng điện từ của các trạm thu phát sóng gây nguy hiểm cho sức khoẻ.
Bộ Bưu chính, Viễn thông (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) cũng đã có công văn số 1251/BBCVT-KHCN ngày 28/6/2006 gửi Văn phòng Chính phủ nêu rõ kết luận của Tổ chức Y tế thế giới là chưa có bằng chứng khoa học cho thấy sóng điện từ của các trạm thu phát sóng gây nguy hiểm cho sức khoẻ.
Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều có tiêu chuẩn về mức giới hạn an toàn của sóng điện từ dưới dạng bắt buộc áp dụng hoặc hướng dẫn, tự nguyện áp dụng. Giới hạn của Uỷ ban quốc tế về phòng chống bức xạ phi ion hoá (ICNIRP) được nhiều tổ chức khuyến nghị và nhiều nước chấp nhận. Ở Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 3718-1:2005 “Quản lý an toàn trong trường bức xạ tần số rađiô - Phần 1: Mức phơi nhiễm lớn nhất trong dải tần từ 3 kHz đến 300 GHz”. Bộ Bưu chính, Viễn thông (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) cũng đã có Quyết định số 19/2006/QĐ-BBCVT ngày 15/6/2006 quy định bắt buộc áp dụng TCVN 3718-1:2005 đối với các trạm thu phát thông tin di động.
TCVN 3718-1:2005 là tiêu chuẩn do Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành ngày 7/2/2006 dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Tiêu chuẩn này quy định các giới hạn về mức hấp thụ năng lượng (SAR) và các mức trường dẫn xuất (cường độ trường điện E, cường độ trường từ H, mật độ dòng năng lượng S) - gọi là mức phơi nhiễm đối với một phần hoặc toàn bộ cơ thể con người trong trường tần số vô tuyến ở dải tần từ 3 kHz đến 300 GHz, ở môi trường con người làm việc (phơi nhiễm do nghề nghiệp) và môi trường sinh sống (phơi nhiễm không do nghề nghiệp). Tiêu chuẩn này áp dụng cho tất cả các hệ thống thiết bị sinh ra trường điện từ RF, trong đó có các trạm thu phát sóng thông tin di động (BTS).
2. Chính sách quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông
Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng hệ thống văn bản quản lý về bức xạ điện từ của các trạm thu phát thông tin di động bao gồm:
- Công bố bắt buộc áp dụng Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 3718-1:2005 về quản lý an toàn trong trường điện từ tần số vô tuyến (Quyết định số 19/2006/QĐ-BBCVT của Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông). Với việc bắt buộc áp dụng TCVN này, giá trị mật độ dòng năng lượng (S) quy định đối với các trạm BTS là 2 W/m2. Giá trị này nghiêm ngặt hơn khi so sánh với các giới hạn của một số tổ chức và một số nước (ước tính đối với các trạm BTS, hoạt động tại tần số 900 MHz): tổ chức ICNIRP là 4,5 W/m2; Mỹ, Nhật là 6 W/m2; Anh là 32 W/m2 (riêng Trung Quốc quy định giá trị thấp 0,4 W/m2).
- Ban hành Tiêu chuẩn Ngành TCN 68-255:2006 về phương pháp đo mức phơi nhiễm trường điện từ nhằm đánh giá mức độ phơi nhiễm quy định trong TCVN 3718-1:2005. Tiêu chuẩn này dựa trên tiêu chuẩn mới nhất của châu Âu (EN 50400:2006 và EN 50401:2006).
- Ban hành các Quyết định số 31/2006/QĐ-BBCVT và 32/2006/QĐ-BBCVT ngày 6/9/2007 về kiểm định công trình viễn thông (có hiệu lực từ 1/1/2007). Theo các văn bản này, từng trạm BTS phải được kiểm định, nếu tuân thủ TCVN 3718-1:2005 thì mới được hoạt động (các trạm thu phát thông tin di động đã xây dựng trước 1/1/2007 cần phải được lập kế hoạch kiểm định, đảm bảo tất cả các trạm thu phát thông tin di động tuân thủ TCVN 3718-1:2005).
Như vậy, nhằm bảo vệ cho người dân sống quanh các trạm thu phát vô tuyến khỏi ảnh hưởng của phơi nhiễm vô tuyến điện, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có quy định về mức giới hạn an toàn (xác định theo mức phơi nhiễm của TCVN 3718-1:2005) và quy định các trạm thu phát thông tin di động phải đảm bảo TCVN 3718-1:2005 thông qua hình thức quản lý là kiểm định công trình viễn thông. Ngoài ra theo yêu cầu của người dân, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã tổ chức đo kiểm để xác minh mức phơi nhiễm tại các địa điểm nhạy cảm (tham khảo thêm phần sau). Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã có các giải thích, hướng dẫn để người dân hiểu biết sâu hơn về vấn đề này, giải quyết nhiều đơn thư khiếu nại của nhiều tổ chức, cá nhân xung quanh vấn đề này. Bộ cũng đã có các văn bản hướng dẫn các Sở Thông tin và Truyền thông và các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông tin di động thực hiện theo đúng các quy định để đảm bảo an toàn cho dân.
Hiện nay Bộ Thông tin và Truyền thông đang đánh giá quá trình thực thi các chính sách của Bộ về quản lý công trình viễn thông (trong đó có quản lý phơi nhiễm trường điện từ của các trạm thông tin di động) để có các điều chỉnh nhằm tăng cường hiệu quả quản lý. Bộ cũng đã và đang tích cực hợp tác với một số Bộ, ngành liên quan để có các biện pháp quản lý liên ngành và đẩy mạnh tuyên truyền đến nhân dân để người dân thấy yên tâm và ủng hộ việc xây dựng, phát triển hạ tầng viễn thông phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
3. Kết quả đo kiểm thực tế và thực thi chính sách quản lý về phơi nhiễm sóng điện từ
Từ khi có các lo ngại về ảnh hưởng của sóng điện từ của các trạm BTS, đã có nhiều cuộc đo thử được thực hiện theo phản ảnh, bức xúc của người dân, hoặc theo yêu cầu của doanh nghiệp lắp đặt trạm BTS. Kết quả đo kiểm cho thấy ở những nơi người dân phản ảnh về hiện tượng sức khoẻ thì mức phơi nhiễm đều nhỏ hơn giá trị tiêu chuẩn rất nhiều.
Từ 1/1/2007, thực hiện quy định kiểm định công trình viễn thông của Bộ Thông tin và Truyền thông, một số công trình trạm BTS mới xây dựng đã được đo kiểm định về phơi nhiễm trường điện từ. Việc đo kiểm định thực hiện bởi các Phòng đo kiểm đã được Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ định (hiện nay có 15 Phòng đo kiểm đã được chỉ định có thể đo kiểm phơi nhiễm trường điện từ).
Kết quả kiểm định từ 1/1/2007 đến nay, theo thống kê, Cục Quản lý chất lượng Công nghệ thông tin và Truyền thông đã cấp giấy chứng nhận cho gần 3000 trạm thu phát sóng thông tin di động di động (ở nhiều tỉnh thành trên cả nước), có nghĩa tẩt cả các trạm này không có trạm nào gây ra mức phơi nhiễm vượt mức giới hạn cho phép 2 W/m2 (hoặc 27,5 V/m) trong khu vực dân cư sinh sống, đi lại xung quanh trạm phát sóng. Việc đo kiểm, đánh giá mức độ an toàn và cấp giấy chứng nhận cho các trạm thu phát còn lại vẫn tiếp tục được tiến hành để đảm bảo tuần thủ các quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông.