Cách đây 50 năm, trước khi từ biệt thế giới này để “đi gặp Cụ Các Mác, Cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
một văn kiện lịch sử vô giá; kết tinh tư tưởng, đạo đức, phong cách của
một vĩ nhân, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới -
đó là bản Di chúc mà Người gọi là Tài liệu “Tuyệt đối bí mật”.
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh qua Di chúc của Người mang giá
trị cách mạng, khoa học và nhân văn, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
TƯ TƯỞNG ĐỊNH HƯỚNG LỚN TRONG DI CHÚC
Tư tưởng lớn có giá trị và ý nghĩa thời
sự được đặt lên hàng đầu thể hiện trong Di chúc của Người là tư tưởng về
Đảng và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Tài sản quý giá nhất về xây
dựng tổ chức cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho nhân dân ta,
dân tộc ta đó là Đảng Cộng sản Việt Nam - một Đảng cách mạng, chân chính
do Người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Để xứng đáng với vai trò tiền
phong, với vị thế cầm quyền, Đảng phải luôn vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức; không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công
nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam
cho mọi hoạt động của mình và phải đoàn kết thống nhất, thường xuyện tự
phê bình và phê bình, gắn bó mật thiết với nhân dân…
Chính vì thế, trong Di chúc, điều tâm nguyện và hệ trọng bậc nhất Người dành nói đến trước tiên, trên hết, đó là về Đảng:“Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”.
Người nêu rõ những vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng Đảng, đó là:
Phải giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng,
nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ,
đảng viên. Người căn dặn phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình; thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê
bình và phê bình trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau; đặc biệt chăm
lo xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân…
Những điều Người viết để lại cho Đảng ta
trong Di chúc là sự phát triển, kết tinh tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam theo con
đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Hiện
nay, liên hệ vào thực tế, chúng ta càng thấm thía hơn bao giờ hết việc
Người đặt ở vị trí trước hết, trước tiên để nói về Đảng. Điều
đó cho thấy, công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công
việc thường xuyên để giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng rất
cần phải thực hành nghiêm túc trong mọi thời điểm như lời Người dặn
trong Di chúc.
Trong Di chúc, tư tưởng lớn thể hiện tầm
nhìn chiến lược và thấm đượm chủ nghĩa nhân văn cộng sản của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đó là tư tưởng về con người và phát triển con người ở Việt
Nam. Xây dựng, giải phóng và phát triển con người trên cơ sở thực tiễn
đó luôn là mục tiêu, là động lực và là một triết lý nhân sinh, triết lý
hành động, là thực hành đạo làm người của lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh.
|
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Thấm nhuần đạo lý, truyền thống tốt đẹp của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, Người
căn dặn phải thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với những người
đã vì Tổ quốc mà dũng cảm hi sinh và gia đình hậu phương của họ. Không
chỉ quan tâm tới việc giúp đỡ cả vật chất và tinh thần cho thương binh,
gia đình thương binh, liệt sĩ, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn quan tâm tới
cách thức để cho thương binh “có thể dần dần tự lực cánh sinh” và cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ “có công ăn việc làm thích hợp”, để
họ tự mình phấn đấu vươn lên, không thụ động và bất lực trước hoàn cảnh
khó khăn. Đối với nông dân - một lực lượng đông đảo, động lực lớn của
cách mạng, là những người đã góp sức người, sức của cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc, Người đề nghị miễn thuế một năm để đồng bào
phấn khởi đẩy mạnh sản xuất.
Đối với những người còn trẻ, đã qua rèn
luyện, thử thách, có nhiều cống hiến trong lực lượng vũ trang và thanh
niên xung phong, Người yêu cầu Đảng, Chính phủ cần chọn một số người ưu
tú để “đào tạo họ thành những công nhân và cán bộ tốt, để họ là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội” ở nước ta. Đối với đoàn viên và thanh niên nói chung, Người căn dặn cần phải chăm lo giáo dục “đạo đức cách mạng” cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên” và nhấn mạnh: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Đối với phụ nữ, Người căn dặn Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch thiết thực để “bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ trở thành cán bộ quản lý, lãnh đạo”; đồng thời, Người yêu cầu bản thân phụ nữ phải cố gắng vươn lên để thực hiện quyền bình đẳng thật sự cho mình.
Con người mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
tâm đến trước lúc đi xa là con người rất cụ thể, không chung chung trừu
tượng. Để con người với tư cách là chủ thể, là động lực của sự phát
triển xã hội thì phải hoàn thiện và thực hiện một chính sách xã hội toàn
diện, chu đáo cả về đời sống vật chất, tinh thần, về giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng, sử dụng. Đó là tư tưởng khoa học, cách mạng; đồng thời thể
hiện tính nhân văn sâu sắc Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với con người. Khi
viết về Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Giáo
sư Trần Văn Giàu đã đưa ra nhận xét tinh tế và sâu sắc rằng: “Tầm cỡ
của một nhà hiền triết chưa chắc ở chỗ giải đáp mối tương quan giữa tồn
tại và tư tưởng, ở chỗ xác định thế giới này là thực tại hay là ảo ảnh,
khả thi hay bất khả thi, ở chỗ lựa chọn giáo điều quen thuộc hay sáng
tạo mới lạ, mà chung quy là ở mức quan tâm đến con người..., lấy đó làm
trung tâm của mọi suy tư và chủ đích của mọi hành động. Cụ Hồ thuộc loại
hiền triết đó”[1].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
là một tư tưởng lớn và rất đặc sắc được thể hiện rõ trong Di chúc. Chủ
tịch Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội không chỉ ở phương diện chính
trị, kinh tế mà cả phương diện đạo đức, văn hóa, trong đó đạo đức là
cái tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội trong tư
tưởng của Người, trước hết là một chế độ xã hội vì con người, do con
người xây dựng nên, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế và
văn hóa để không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội là sự nghiệp cách mạng lâu dài, khó khăn gian khổ, nặng nề
và phức tạp; vừa cải tạo xã hội cũ vừa xây dựng xã hội mới với cả cơ sở
hạ tầng, phát triển các ngành kinh tế, sửa đổi chế độ giáo dục, phát
triển y tế. Theo Người, để tạo ra một xã hội mới với những cái mới mẻ,
tốt tươi, loại trừ những cái cũ kỹ, hư hỏng thì phải động viên toàn dân,
tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân. Ở
đây, Di chúc toát lên tư tưởng trọng dân, lấy dân làm gốc vốn là tư
tưởng lớn, xuyên suốt và nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong Di chúc, tư tưởng về đổi mới và
phát triển đất nước là một tư tưởng lớn, thể hiện tầm nhìn, tư duy lý
luận khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang soi sáng cho con đường cách
mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Nghiên cứu về những tư
tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc, GS.TS Hoàng Chí Bảo đã
viết: “Về hình thức, Di chúc chỉ có 1.000 từ nhưng chứa đựng những tư
tưởng lớn. Đó thực sự là một đại tổng kết lý luận và thực tiễn về sự
nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc đã đánh thắng hai đế
quốc to, là một thiết kế lý luận về đổi mới và phát triển, trù tính cho
tương lai đất nước, sau khi cách mạng hoàn toàn thắng lợi đi vào thiết
kế, xây dựng, phát triển kinh tế và văn hóa mà mục tiêu cao nhất là
hướng tới quyền làm chủ và hạnh phúc của nhân dân”[2].
Cùng với tư tưởng về Đảng, về con người, về chủ nghĩa xã hội được thể
hiện trong Di chúc, tư tưởng của Người về nhiệm củng cố quốc phòng, bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam cũng được viết rất ngắn gọn nhưng ý nghĩa rất sâu
sắc.
NGỜI SÁNG ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Đồng thời với tư tưởng và thống nhất với tư tưởng là đạo đức, thực hành đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh. Những
tư tưởng Người viết về Đảng, về công việc đối với con người, về chủ
nghĩa xã hội đã chứa đựng tư tưởng đạo đức mang bản chất cách mạng và
nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, việc thực hành đạo đức của Người qua Di chúc
làm mỗi người khi đọc Di chúc vô cùng xúc động, cảm phục. Có lẽ, đoạn
Người viết “Về việc riêng” là gây xúc động mạnh nhất trong Di
chúc và qua đó nhân cách Hồ Chí Minh ngời sáng trọn vẹn trong trái tim
của mỗi con dân nước Việt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một con người và
theo lẽ tự nhiên Người có việc riêng, có cuộc đời riêng tư mà rất nhiều
người muốn đặt vấn đề tìm hiểu từ khi Người còn sống. Trong Di chúc,
Người viết về việc riêng, nhưng không thổ lộ những điều ấp ủ thầm kín,
riêng tư dành riêng cho cá nhân. Điều lớn lao, hàm chứa và toát
lên qua từng câu chữ là lòng yêu thương con người, vì con người - những
con người đang sống trên trái đất này. Ra đi, Người không có điều gì
phải hối hận, hối tiếc vì đã trọn đời dâng hiến cho dân, cho nước, nâng
niu tất cả chỉ quên mình. Người chỉ có một điều tiếc duy nhất là “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Người ra đi không mang theo gì cho mình. Người để lại tất cả trọn vẹn cho Đảng, cho dân. Người dặn, khi Người mất, “chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”. Đối với thân thể của mình, Người yêu cầu đốt đi để “đối
với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng”, “tro
xương thì tìm một quả đồi mà chôn… trên mộ nên xây một cái nhà đơn giản,
rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm có chỗ nghỉ ngơi”. Ở
đây, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và lòng yêu thương
con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện hữu trọn vẹn sáng ngời, có một
không hai, từ sinh thời cho đến khi “phải từ biệt thế giới này”.
Tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí
Minh có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong Di chúc, phong cách Hồ Chí Minh
được thể hiện cả ở tư tưởng, đạo đức và ngôn ngữ biểu cảm của Người. Có
thể nói, “phong cách Hồ Chí Minh chính là con người Hồ Chí Minh”.
Phong cách Hồ Chí Minh là phong cách của một lãnh tụ chính trị, thấm
nhuần chủ nghĩa nhân văn cao cả và triết lý hành động vì con người của
một nhà văn hóa lớn. Đó cũng là phong cách một vĩ nhân, của bậc đại trí,
đại nhân, đại dũng nhưng không xa lạ, khác thường mà gần gũi, chân
tình, thấu hiểu mọi người, hóa thân vào nhân dân và toát lên một kiểu
mẫu văn hóa làm người trong thời đại mới.
Phong cách Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc rất đặc sắc, mang phong cách “hiền triết Á Đông” và đậm đà bản sắc dân tộc Việt. Từng
câu chữ trong Di chúc đều thể hiện rõ nhận định này. Người viết theo
cách dùng chữ ít nhất mà nghĩa nhiều nhất, hàm xúc và cô đọng, sử
dụng ngôn từ chính xác và tinh tế; từng chữ, từng lời có sức lay động
đến mỗi trái tim con người. Phong cách Hồ Chí Minh thể hiện trong Di
chúc là phong cách của một lãnh tụ có tầm nhìn xa trông rộng, một tinh
thần lạc quan, niềm tin mãnh liệt vào tương lai, vào thắng lợi của cách
mạng.
Người khẳng định, “Cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh
nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc
chắn”. Trong Di chúc, phong cách Hồ Chí Minh còn thể hiện rất rõ,
rất tinh tế qua tính chủ động, lo xa, phòng xa, tự chủ với mọi tình
huống có thể đưa đến một cách có ý thức sâu sắc. Đọc đoạn Người viết bổ
sung năm 1968 “về việc riêng” và đoạn sửa lại trang cuối cùng
bản Di chúc vào ngày 10/5/1969 (ngày Người hoàn chỉnh lần cuối cùng bản
Di chúc) chúng ta thấy rất rõ điều này.
Sáng rõ tầm nhìn thời đại và vẹn nguyên
giá trị định hướng, 50 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, Di chúc
của Người vẫn là những chỉ dẫn quý báu, động lực tinh thần vô giá giúp
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta vượt qua khó khăn, tận dụng thời cơ,
đối diện thách thức để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa phát triển bền vững. Trong 50 năm qua, toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân đã đoàn kết, ra sức phấn đấu thực hiện Di chúc của Người; đã nhận
thức sâu sắc những điều Người dặn dò, gửi gắm là vô cùng hệ trọng đối
với sự nghiệp cách mạng và vận mệnh của dân tộc Việt Nam. Những trăn trở
của Người, điều tâm nguyện từ trái tim, trí tuệ của Người đã và đang
được nỗ lực thực hiện bởi những con người Việt Nam tin Đảng, tin Bác
kính yêu và giàu lòng yêu nước.
Tuy nhiên, cũng phải nói thật là vẫn còn
nhiều việc chưa làm được hoặc chưa làm đầy đủ như lời Người căn dặn.
Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, chúng ta còn không ít yếu kém và
khuyết điểm, nhất là trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”
đã chỉ rõ: “Công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm…
Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính
tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự
sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa
đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái… Tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi,
phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập
trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”. Trong khi đó,
“sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy
hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực
xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh
đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và
chế độ”.
Vì vậy, để thực hiện Di chúc của Người
hiệu quả, nhất là trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong thời
gian tới, cần tiếp tục gắn thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị
khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
với các Nghị quyết Trung ương về xây dựng Đảng (Nghị quyết Trung ương 4
khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII), các nghị quyết về xây dựng
văn hóa, con người, phát triển kinh tế Việt Nam trong thời kỳ mới. Đồng
thời, phải tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tăng cường sự
đồng thuận của nhân dân và khối đại đoàn kết dân tộc để nhân lên những
thành công, khắc phục yếu kém và khuyết điểm, gạt bỏ những lực cản, tạo
động lực mới để phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là cách tốt nhất để tỏ lòng tôn
kính Chủ tịch Hồ Chí Minh và khẳng định giá trị, sức sống trường tồn của
bản Di chúc lịch sử./.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh được viết trong thời gian từ tháng 5/1965 cho tới tháng 5/1969. Di
chúc là kết tinh tư tưởng, tinh hoa đạo đức, tâm hồn cao đẹp và phong
cách của Người; chứa đựng giản dị mà súc tích những nội dung cơ bản,
những quan điểm cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh; có giá trị và vạch ra
phương hướng phát triển cho cách mạng Việt Nam cả hôm nay và mai sau.
50 năm sau, Di chúc của
Người vẫn là một văn kiện có giá trị lịch sử quan trọng; trong đó, sự
kết hợp chặt chẽ giữa tính khoa học và tính thực tiễn trên nền tảng chủ
nghĩa nhân văn cao đẹp đã làm nên giá trị chân chính và bền vững của Di
chúc Bác Hồ.
|
Thiếu tướng, PGS.TS, NGƯT Nguyễn Văn Thế
Phó Giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
[1] Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.287.
[2] Hoàng Chí Bảo: Sự kết tinh tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh trong Di chúc của Người, Tạp chí Cộng sản, số 901 (11/2017), tr.46.
Ghi chú: Tất cả những chỗ in nghiêng trong bài đều trích trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611-623.