Phòng ngừa tham nhũng là một trụ cột của Luật phòng, chống tham nhũng.
Kinh nghiệm chống tham nhũng của các nước trên thế giới cho thấy, công
tác phòng ngừa đóng vai trò rất quan trọng. Công ước của Liên hợp quốc
về chống tham nhũng khuyến cáo các quốc gia thành viên lưu ý trong việc
xây dựng và duy trì một chiến lược phòng ngừa tham nhũng liên tục, toàn
diện và có hiệu quả. Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định khá đầy đủ
các biện pháp phòng ngừa đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng hiện
nay. Chính vì vậy, trong Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005,
nội dung về phòng ngừa tham nhũng chiếm tỉ lệ rất lớn, phần lớn những
điểm mới trong quy định của pháp luật về chống tham nhũng nằm trong các
biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Các quy định về biện pháp phòng, ngừa
tham nhũng được quy định tại chương này gồm có 6 mục với tổng số 48 điều
quy định những nội dung cụ thể như sau:
Đây
là biện pháp quan trọng đầu tiên để ngăn ngừa tham nhũng. Công khai,
minh bạch sẽ tạo điều kiện để người dân cũng như toàn xã hội tham gia
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Với việc công khai minh
bạch trong hoạt động tại các cơ quan nhà nước, người dân sẽ dễ dàng nhận
biết được các quyền và nghĩa vụ của mình để chủ động thực hiện theo các
quy định của pháp luật cũng như đòi hỏi cơ quan Nhà nước và các cán bộ,
công chức nhà nước thực hiện các quy định đó. Công khai, minh bạch sẽ
làm cho công chức nhà nước có ý thức hơn trong việc thực hiện chức
trách, công vụ của mình theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp
luật quy định, bởi mọi hành vi vi phạm, phiền hà, sách nhiễu hay lợi
dụng chức trách để tư lợi đều có thể bị phát hiện và xử lý. “Công khai và minh bạch là những chìa khoá then chốt nhằm bảo đảm đấu tranh chống tham nhũng thành công”[1].
Luật phòng, chống tham nhũng đưa ra các nguyên tắc cũng như thể chế hoá để bảo đảm cho việc thực hiện các nguyên tắc đó. Bên cạnh đó Luật phòng, chống tham nhũng quy định công khai, minh bạch trong một số lĩnh vực hoạt động cụ thể, những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng.
- Về nguyên tắc công khai:
Luật
phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định chính sách, pháp luật và việc
tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được tiến hành công khai,
minh bạch, bảo đảm công bằng, dân chủ. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải
công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và
những nội dung khác theo quy định của Chính phủ.
Đây
là một bước tiến rất lớn trong quá trình công khai hoá hoạt động của bộ
máy nhà nước. Trước đây, Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 cũng coi
công khai là biện pháp quan trọng nhằm phòng ngừa tham nhũng nhưng chỉ
giới hạn trong phạm vi rất hẹp, đó là thủ tục hành chính trong các lĩnh
vực liên quan đến giải quyết công việc của công dân.
- Về hình thức công khai:
Để công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã quy định 7 hình thức công khai, bao gồm:
- Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
- Niêm yết công khai tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
- Thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan;
- Phát hành ấn phẩm;
- Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
- Đưa lên trang thông tin điện tử;
- Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Dựa
trên những hình thức này, các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải lựa chọn sử
dụng một hoặc một số hình thức phù hợp. Quy định cụ thể như vậy để
tránh việc cơ quan, tổ chức đơn vị thực hiện công khai một cách hình
thức, tuỳ tiện và né tránh công khai sự thật.
Bên cạnh đó, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005
quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông tin, bao gồm hai loại: quyền
yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí và quyền yêu cầu cung cấp thông
tin của cá nhân. Theo đó, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, cơ quan báo chí trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm cung
cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo quy
định của pháp luật. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu
cầu, cơ quan, tổ chức, đơn vị được yêu cầu phải cung cấp thông tin, trừ
trường hợp nội dung thông tin đã được công khai trên các phương tiện
thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai;
trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng
văn bản cho cơ quan, tổ chức yêu cầu biết và nêu rõ lý do.
Có
thể thấy rằng, Luật quy định việc cung cấp thông tin là trách nhiệm của
các cơ quan, tổ chức, đơn vị để bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch
nhưng để tránh việc yêu cầu thông tin tràn lan hoặc lạm dụng, lợi dụng
quyền yêu cầu cung cấp thông tin và cũng để tạo điều kiện cho việc thực
hiện được quy định này trên thực tế không gây khó khăn cho cơ quan, tổ
chức, đơn vị thì quyền yêu cầu cung cấp thông tin và trách nhiệm trả lời
yêu cầu này phải nằm trong một phạm vi nhất định theo quy định của pháp
luật:
Một là, các cơ quan, tổ chức hoặc báo chí được quyền yêu cầu cung cấp thông tin trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình chứ
không phải bất kỳ thông tin nào mà mình muốn, chỉ những thông tin cần
thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn hoặc liên quan đến cơ quan,
tổ chức mình thì mới có quyền yêu cầu được cung cấp. Chẳng hạn, cơ quan
nhà nước có thể yêu cầu cung cấp thông tin liên quan đến trách nhiệm
quản lý của cơ quan nhà nước đó; tổ chức chính trị - xã hội có quyền yêu
cầu cung cấp thông tin liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của
các thành viên tổ chức đó; cơ quan báo chí có quyền yêu cầu cung cấp
thông tin để phục vụ cho tác nghiệp báo chí… Hai là, cơ quan tổ chức, đơn vị chỉ có trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động của mình theo quy định của pháp luật.
Có
thể thấy, pháp luật quy định rất cụ thể về quyền yêu cầu cung cấp thông
tin, vừa bảo đảm các cơ quan, tổ chức đơn vị phải thực hiện nguyên tắc
công khai hoá vừa cố gắng để việc thực hiện trách nhiệm này không ảnh
hưởng nhiều đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, đơn vị được
yêu cầu. Trường hợp nội dung được yêu cầu đã được công khai trên các
phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết
công khaithì cơ quan, tổ chức, đơn vị được yêu cầu có trách nhiệm hướng
dẫn cơ quan, tổ chức yêu cầu tiếp cận thông tin đó.
Vấn
đề bảo đảm quyền yêu cầu cung cấp thông tin là một nội dung hết sức
quan trọng và có tác dụng thiết thực vào việc phòng ngừa tham nhũng, hơn
nữa đây là vấn đề rất mới. Chính vì vậy, để có cơ sở thực hiện thật tốt
điều này, Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20-10-2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng (sau
đây gọi tắt là Nghị định 120) đã dành nhiều quy định vừa cụ thể hoá,
vừa hướng dẫn để các các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ cung cấp
thông tin cũng như có yêu cầu về thông tin có thể thực hiện một cách
thuận lợi.
Ngoài việc nêu nguyên tắc và cơ chế bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đơn vị nói chung, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005
có những quy định cụ thể trong một số lĩnh vực mà thực tế cho thấy có
xảy ra nhiều tham nhũng, gây thất thoát một lượng lớn tiền, tài sản của
Nhà nước cũng như có nhiều sự phiền hà, sách nhiễu. Cụ thể là:
- Công khai, minh bạch trong mua sắm công và xây dựng cơ bản;
- Công khai, minh bạch trong quản lý dự án đầu tư xây dựng;
- Công khai, minh bạch về tài chính và ngân sách nhà nước;
- Công khai, minh bạch việc huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân;
- Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng các khoản hỗ trợ viện trợ;
- Công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp của Nhà nước;
- Công khai, minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp của Nhà nước;
- Kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước;
- Công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng đất;
- Công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng nhà ở;
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực giáo dục;
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực y tế;
- Công khai minh bạch trong lĩnh vực khoa học - công nghệ;
- Công khai minh bạch trong lĩnh vực thể dục, thể thao;
- Công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm toán nhà nước;
- Công khai, minh bạch trong hoạt động giải quyết các công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân;
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực tư pháp;
- Công khai, minh bạch trong công tác tổ chức - cán bộ;
- Công khai báo cáo hằng năm về phòng, chống tham nhũng[2].
Chế
độ, định mức, tiêu chuẩn trong các lĩnh vực quản lý luôn liên quan đến
việc sử dụng tài sản, vốn và ngân sách nhà nước. Việc thực hiện một cách
tuỳ tiện và trái phép các tiêu chuẩn, chế độ, định mức đó sẽ dẫn đến
việc tài sản của Nhà nước bị thất thoát, tiền bạc hoặc những lợi ích vật
chất rơi vào một số ít người, thực chất đó là sự hưởng lợi bất chính
của những người có chức vụ, quyền hạn hoặc những người có quan hệ thân
quen với người có chức vụ, quyền hạn. Đây chính là hành vi tham nhũng
cần ngăn chặn.
Thông thường có hai loại tiêu chuẩn, chế độ định mức bị vi phạm liên quan đến tham nhũng:
- Một là,
các chế độ, định mức tiêu chuẩn về lợi ích, nhất là các chế độ đối với
người có chức vụ lãnh đạo, quản lý. Chẳng hạn, chế độ phục vụ, chế độ
dùng xe công, tiêu chuẩn dùng điện thoại...
Vi phạm trong việc thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn này thường có hai dạng như sau:
+ Được hưởng hay sử dụng kinh phí hoặc loại tài sản vượt mức mà Nhà nước quy định;
+
Người không thuộc diện được hưởng nhưng đã được hưởng, tức là tự ý mở
rộng đối tượng được hưởng một tiêu chuẩn thuộc về lợi ích vật chất nào
đó. Ví dụ: Nhà nước quy định chỉ có cán bộ cấp vụ mới được trang bị điện
thoại di động nhưng cơ quan nào đó đã mở rộng đối tượng đến cả các cấp
thấp hơn như trưởng phòng, đội trưởng...
- Hai là,
các chế độ, định mức, tiêu chuẩn có tính chất chuyên môn - kỹ thuật. Đó
là những quy định để bảo đảm chất lượng các công trình hoặc công việc
nào đó, với những yêu cầu chính xác cao về kỹ thuật, về quy trình thực
hiện, về thời gian, về nguyên vật liệu. Tự ý thay đổi, hạ thấp tiêu
chuẩn này sẽ dẫn đến việc một số người được hưởng lợi, thực chất là tham
nhũng, biểu hiện điển hình của loại vi phạm này chính là hiện tượng
"rút ruột" công trình xây dựng, hạ thấp chi phí thực tế thông qua việc
hạ thấp tiêu chuẩn kỹ thuật để chia nhau hưởng lợi. Đây là hành vi hết
sức nguy hiểm bởi vì không những Nhà nước bị thiệt hại về tài sản mà hậu
quả có thể hết sức nghiêm trọng, việc khắc phục là rất khó khăn, tốn
kém.
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005
đã đưa ra các quy định nhằm bảo đảm cho việc ban hành, chấp hành quy
định từ việc xây dựng, thực hiện cũng như chế độ, trách nhiệm trong
trường hợp để xảy ra vi phạm.
Luật phòng, chống tham nhũng quy định về việc xây dựng, ban hành và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn như sau:
- Cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
+ Xây dựng, ban hành và công khai các chế độ, định mức, tiêu chuẩn;
+ Công khai các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn về quyền lợi đối với từng loại chức danh trong cơ quan mình;
+ Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn;
-
Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp và các
cơ quan, tổ chức, đơn vị khác có sử dụng ngân sách nhà nước căn cứ vào
quy định tại khoản 1 Điều này hướng dẫn áp dụng hoặc phối hợp với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng, ban hành và công khai các chế độ,
định mức, tiêu chuẩn áp dụng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình;
- Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, đơn vị ban hành các chế độ, định mức, tiêu chuẩn trái pháp luật.
-
Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thường xuyên kiểm tra việc chấp hành và
xử lý kịp thời hành vi vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn.
- Người có hành vi vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn phải bị xử lý theo quy định của pháp luật.
-
Người cho phép sử dụng vượt chế độ, định mức, tiêu chuẩn phải bồi
thường phần giá trị mà mình cho phép sử dụng vượt quá; người sử dụng
vượt chế độ, định mức, tiêu chuẩn có trách nhiệm liên đới bồi thường
phần giá trị được sử dụng vượt quá.
-
Người cho phép thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn chuyên môn - kỹ
thuật thấp hơn mức quy định phải bồi thường phần giá trị mà mình cho
phép sử dụng thấp hơn; người hưởng lợi từ việc thực hiện chế độ, định
mức, tiêu chuẩn chuyên môn - kỹ thuật thấp hơn có trách nhiệm liên đới
bồi thường phần giá trị được hưởng lợi[3].
Các
nước trên thế giới mặc dù có chế độ chính trị khác nhau nhưng về cơ
bản, việc thực hiện quyền lực công đều phải thông qua hoạt động công vụ
của đội ngũ công chức. Vì vậy, để chống tham nhũng, không có cách gì tốt
hơn là tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, cụ thể
là tác động vào đội ngũ cán bộ, công chức và quá trình thực hiện công
vụ. Ngoài ra, trong chừng mực nào đó, cần kiểm soát cả những quan hệ xã
hội của họ, những quan hệ có nguy cơ bị lợi dụng và nảy sinh tham nhũng.
Trên một quan niệm chung như vậy, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã đưa ra nhiều giải pháp liên quan đến cán bộ, công chức như sau:
Quy
tắc ứng xử của cán bộ, công chức đã được nhiều nước quy định, nhưng vẫn
là một khái niệm khá mới ở nước ta. Quy tắc ứng xử vừa biểu hiện mối
quan hệ giữa công chức với nhà nước, vừa thể hiện mối quan hệ giữa cán
bộ, công chức với xã hội.
Quy
tắc ứng xử là các chuẩn mực xử sự của cán bộ, công chức, viên chức
trong thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội, bao gồm những
việc phải làm hoặc không được làm, phù hợp với đặc thù công việc của
từng nhóm cán bộ, công chức, viên chức và từng lĩnh vực hoạt động công
vụ, nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách nhiệm của cán bộ, công chức,
viên chức.
Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức được công khai để nhân dân giám sát việc chấp hành.
Theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng, nội dung quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức bao gồm:
Thứ nhất, những điều cán bộ, công chức không được làm (thường gọi là những điều cấm):
Cán bộ, công chức, viên chức không được làm những việc sau đây:
- Cửa quyền, hách dịch, gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong khi giải quyết công việc;
-
Thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty
hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu
khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
-
Làm tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác ở trong nước và nước
ngoài về các công việc có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật công
tác, những công việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc mình tham
gia giải quyết;
-
Kinh doanh trong lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý sau
khi thôi giữ chức vụ trong một thời hạn nhất định theo quy định của
Chính phủ;
- Sử dụng trái phép thông tin, tài liệu của cơ quan, tổ chức, đơn vị vì vụ lợi.
-
Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, vợ hoặc chồng của
những người đó không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm
vi ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước.
-
Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
không được bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của mình
giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán - tài vụ, làm thủ quỹ,
thủ kho trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc giao dịch, mua bán vật tư,
hàng hoá, ký kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.
-
Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan không được để vợ
hoặc chồng, bố, mẹ, con kinh doanh trong phạm vi do mình quản lý trực
tiếp.
-
Cán bộ, công chức, viên chức là thành viên hội đồng quản trị, tổng giám
đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng và những
cán bộ quản lý khác trong doanh nghiệp của Nhà nước không được ký kết
hợp đồng với doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con,
anh, chị, em ruột; cho phép doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng,
bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột tham dự các gói thầu của doanh nghiệp
mình; bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột giữ chức vụ
quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán - tài vụ, làm thủ quỹ, thủ kho trong
doanh nghiệp hoặc giao dịch, mua bán vật tư, hàng hoá, ký kết hợp đồng
cho doanh nghiệp.
Những
quy định trên đây cũng được áp dụng đối với các đối tượng sau: sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân[4].
Như
vậy, có thể thấy trong những quy định nói trên có những việc mà bản
thân cán bộ, công chức không được làm và cả những việc liên quan đến
những người thân (vợ, chồng, con, bố, mẹ, anh, chị, em ruột) của cán bộ,
công chức, viên chức đó.
Đó
là những quy định cần thiết để ngăn ngừa những nguy cơ xảy ra tham
nhũng và tăng cường tính liêm chính, bảo đảm sự công tâm của cán bộ,
công chức, viên chức trong hoạt động công vụ.
Thứ hai, nghĩa vụ báo cáo và xử lý báo cáo về dấu hiệu tham nhũng xảy ra trong cơ quan, tổ chức, đơn vị:
Đây là quy định mới so với Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998.
Thực tế cho thấy, đa số các vụ việc tham nhũng trong thời gian gần đây
đều được phát hiện "từ bên ngoài". Trong khi đó, những thông tin hay
biểu hiện tham nhũng trong cơ quan, đơn vị thì không được phát giác kịp
thời. Có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng một trong số đó là biểu hiện
né tránh, nể nang, thậm chí là thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật.
Xung
đột lợi ích có thể xuất hiện trong quá trình thực hiện khi một cán bộ,
công chức, viên chức phát hiện thấy hành vi tham nhũng của đồng nghiệp,
thậm chí của cấp trên. Nếu báo cáo với người có thẩm quyền thì có thể
gây mất đoàn kết nội bộ hoặc cơ quan, đơn vị mình mất thành tích thi
đua. Tuy nhiên, pháp luật đòi hỏi người cán bộ, công chức, viên chức
phải lựa chọn lợi ích cao hơn đó là lợi ích của Nhà nước, của toàn xã
hội và trong mọi trường hợp đều phải bảo đảm nguyên tắc “mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh”.
Sự xung đột lợi ích này cũng xảy ra đối với người nhận được báo cáo về
dấu hiệu tham nhũng xảy ra trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình và việc
giải quyết đúng pháp luật báo cáo đó chính là ứng xử một cách đúng đắn,
là trách nhiệm của người cán bộ, công chức, viên chức.
Luật phòng, chống tham nhũng quy định nghĩa vụ báo cáo và xử lý báo cáo về dấu hiệu tham nhũng như sau:
-
Khi phát hiện có dấu hiệu tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi
mình làm việc thì cán bộ, công chức, viên chức phải báo cáo ngay với
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đó; trường hợp người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị có liên quan đến dấu hiệu tham nhũng đó thì báo
cáo với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp.
-
Chậm nhất là mười ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo về dấu hiệu tham
nhũng, người được báo cáo phải xử lý vụ việc theo thẩm quyền hoặc chuyển
cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét xử lý và thông báo
cho người báo cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn trên có thể kéo
dài nhưng không quá ba mươi ngày; trường hợp cần thiết thì quyết định
hoặc đề nghị người có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp nhằm
ngăn chặn, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng và bảo vệ người báo
cáo[5].
Bên
cạnh nghĩa vụ báo cáo và xử lý báo cáo về dấu hiệu tham nhũng của cán
bộ, công thức, viên chức, Luật cũng quy định trách nhiệm của cán bộ,
công chức, viên chức biết được hành vi tham nhũng mà không báo cáo và
người nhận được báo cáo về hành vi, dấu hiệu tham nhũng mà không xử lý
thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, quy định về tặng quà và nhận quà tặng của cán bộ, công chức, viên chức:
Việc
tặng quà và nhận quà tặng vốn là một phong tục, tập quán bình thường
của người Á Đông nói chung và của người Việt Nam nói riêng, thể hiện
tình cảm hay sự biết ơn trong các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, phong tục
này hiện nay đang có xu hướng bị lợi dụng để thực hiện hành vi đưa và
nhận hối lộ. Để phòng ngừa tham nhũng thông qua thực hiện hành vi tặng
quà và nhận quà tặng, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 chỉ
đưa ra các quy định có tính nguyên tắc và giao cho Chính phủ quy định
chi tiết việc tặng quà, nhận quà tặng và nộp lại quà tặng của cán bộ,
công chức, viên chức.
Điều 40, Luật phòng, chống tham nhũng quy định về việc tặng quà và nhận quà tặng của cán bộ, công chức, viên chức:
-
Cơ quan, tổ chức, đơn vị không được sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà
nước làm quà tặng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
-
Cán bộ, công chức, viên chức không được nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích
vật chất khác của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân liên quan đến công
việc do mình giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của mình.
- Nghiêm cấm lợi dụng việc tặng quà, nhận quà tặng để hối lộ hoặc thực hiện các hành vi khác vì vụ lợi[6].
Ngày 10-5-2007, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 64/2007/QĐ-TTg ban hành Quy
chế về việc tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng của cơ quan, tổ
chức, đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước và cán bộ, công chức, viên
chức. Theo đó, quà tặng bao gồm:
- Tiền Việt Nam, tiền nước ngoài, sổ tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu, séc và các giấy tờ có giá.
- Hiện vật, hàng hóa, tài sản.
- Dịch vụ thăm quan, du lịch, y tế, giáo dục - đào tạo, thực tập, bồi dưỡng trong nước hoặc ngoài nước và các loại dịch vụ khác.
-
Quyền được mua tài sản, nhà, quyền sử dụng đất, quyền sử dụng thiết bị;
các ưu đãi ngoài quy định của Nhà nước; việc sử dụng tài sản, nhà, đất
đai, thiết bị của người khác mà không trả hoặc trả không đầy đủ chi phí
cho việc sử dụng.
Một số hành vi bị nghiêm cấm trong việc nhận quà bao gồm:
-
Cơ quan, đơn vị và cá nhân tặng quà có liên quan đến hoạt động công vụ
do mình hoặc người mà mình nhận thay chịu trách nhiệm giải quyết (trước,
trong và sau khi thực hiện công vụ) hoặc thuộc phạm vi quản lý.
- Quà tặng của các cơ quan, đơn vị và cá nhân mà việc tặng quà đó không rõ mục đích.
- Việc tặng quà có mục đích liên quan đến các hành vi tham nhũng.
Về việc nhận quà, Quy chế quy định:
-
Các cơ quan, đơn vị chỉ được nhận quà tặng theo đúng quy định của pháp
luật. Quà tặng phải được công khai, quản lý và sử dụng theo đúng các quy
định tại Quy chế này.
-
Đối với quà tặng không đúng chế độ, tiêu chuẩn, đối tượng thì đại diện
cơ quan, đơn vị phải từ chối và giải thích rõ lý do với người tặng quà.
Trong trường hợp không thể từ chối được, cơ quan, đơn vị phải tổ chức
quản lý, xử lý quà tặng theo quy định.
-
Cán bộ, công chức, viên chức chỉ được nhận quà tặng theo đúng quy định
của pháp luật và phải ký xác nhận; phải kê khai thu nhập trong trường
hợp pháp luật có yêu cầu.
-
Đối với quà tặng không đúng chế độ, tiêu chuẩn, đối tượng thì cán bộ,
công chức, viên chức phải từ chối và giải thích rõ lý do với người tặng
quà. Trong trường hợp không thể từ chối được, cán bộ, công chức, viên
chức phải báo cáo thủ trưởng cơ quan, đơn vị mình để xử lý theo quy
định.
- Đối
với quà tặng từ họ hàng, người thân trong gia đình mà những người đó
không có mối quan hệ về lợi ích liên quan đến hoạt động công vụ của
người được tặng quà và quà tặng từ những cơ quan, đơn vị, cá nhân không
liên quan đến hoạt động công vụ của người được tặng quà thì cán bộ, công
chức, viên chức được tặng quà không phải báo cáo với cơ quan, đơn vị;
trong trường hợp pháp luật có yêu cầu kê khai thu nhập thì cán bộ, công
chức, viên chức phải thực hiện kê khai theo đúng quy định.
Việc báo cáo và nộp lại quà tặng được thực hiện như sau:
-
Cơ quan, đơn vị khi nhận được quà tặng không đúng quy định thì phải
giao lại quà tặng cho bộ phận chịu trách nhiệm quản lý quà tặng của cơ
quan, đơn vị đó để xử lý theo quy định.
-
Cán bộ, công chức, viên chức khi nhận được quà tặng không đúng quy định
thì phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp và nộp lại quà tặng cho cơ quan,
đơn vị mình trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quà
tặng.
Trường hợp báo cáo và nộp lại quà tặng chậm so với thời hạn nêu trên thì người nhận quà tặng phải giải trình rõ lý do.
- Báo cáo phải được thể hiện bằng văn bản và có đầy đủ các nội dung sau:
+ Loại và giá trị của quà tặng.
+ Thời gian, địa điểm và hoàn cảnh cụ thể khi nhận quà tặng.
+ Tên, chức vụ, cơ quan, địa chỉ của người tặng quà.
+ Mục đích của việc tặng quà (nếu biết).
Ngoài
trường hợp quy định tại Điều 11, Quy chế này, cán bộ, công chức khi ốm
đau, tai nạn hoặc nhân dịp hiếu, hỷ, lễ, tết truyền thống được tặng quà
có trị giá dưới 500.000 đồng Việt Nam mà việc tặng quà đó không liên
quan đến các mục đích, hành vi quy định tại Quy chế thì người được tặng
quà tự quyết định mà không phải báo cáo và phải chịu trách nhiệm về
quyết định của mình.
Quy chế cũng quy định rõ về trình tự xử lý quà tặng như sau:
Khi
quà tặng được nộp lại cho cơ quan, đơn vị, thủ trưởng cơ quan, đơn vị
đó phải tổ chức tiếp nhận, bảo quản và phải xử lý ngay số quà tặng:
- Với
quà tặng bằng tiền, sổ tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu, séc và các giấy
tờ có giá thì làm thủ tục nộp ngay vào ngân sách nhà nước theo quy định
của Bộ Tài chính.
- Với quà tặng bằng hiện vật:
+
Xác định giá trị của quà tặng trên cơ sở giá của quà tặng do cơ quan,
đơn vị, cá nhân tặng quà cung cấp (nếu có) hoặc giá trị của quà tặng
tương tự được bán trên thị trường trong nước hoặc quốc tế mà cơ quan
quản lý người được tặng quà có thể so sánh và xác định giá trị. Trong
trường hợp không xác định được giá trị của quà tặng bằng hiện vật thì có
thể đề nghị cơ quan có chức năng thẩm định xác định.
+ Tuỳ
theo số lượng hiện vật được nộp lại, thủ trưởng cơ quan, đơn vị quyết
định việc tổ chức bán hiện vật công khai 3 tháng hoặc 6 tháng một lần.
+ Đối
với quà tặng quy định tại khoản 3 Điều 3 Quy chế này và quà tặng là
động vật, thực vật, thực phẩm tươi, sống và hiện vật khác khó bảo quản
thì thủ trưởng cơ quan, đơn vị căn cứ tình hình cụ thể để quyết định xử
lý cụ thể cho phù hợp; nếu vượt quá thẩm quyền thì báo cáo cơ quan cấp
trên trực tiếp để xem xét, quyết định xử lý.
+ Số
tiền thu được (sau khi trừ đi chi phí liên quan đến việc xử lý hiện
vật) các cơ quan, đơn vị nộp vào ngân sách nhà nước trong thời gian
không quá 30 ngày, kể từ ngày bán hiện vật.
-
Cơ quan, đơn vị phải lập báo cáo về việc thu, nộp, xử lý quà tặng theo
định kỳ hằng quý, hằng năm gửi cơ quan cấp trên trực tiếp và công khai
trong cơ quan, đơn vị mình. Cơ quan, đơn vị xử lý quà tặng có trách
nhiệm thông báo bằng văn bản tới cơ quan, đơn vị tặng quà hoặc cơ quan,
đơn vị quản lý người tặng quà để xem xét việc tặng quà và xử lý theo quy
định của pháp luật.
Để
các cơ quan có cơ sở quy định quy tắc ứng xử của từng loại cán bộ, công
chức, viên chức phù hợp với tính chất của hoạt động công vụ và các quy
tắc ứng xử với những tình huống thường xảy ra trong các quan hệ công vụ
và quan hệ xã hội trong lĩnh vực mà cán bộ, công chức, viên chức đó đảm
nhận và thực hiện (chẳng hạn thẩm phán, kiểm sát viên, công chức hải
quan, thuế...), Điều 41 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định:
1.
Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính
phủ, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước ban
hành quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong cơ
quan, ngành, lĩnh vực do mình quản lý.
2.
Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao ban hành quy tắc ứng xử của thẩm phán, hội thẩm, thư ký toà án,
kiểm sát viên và cán bộ, công chức, viên chức khác trong toà án, viện
kiểm sát.
3.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên
chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương; phối hợp với cơ quan
trung ương của các tổ chức chính trị- xã hội ban hành quy tắc ứng xử
của cán bộ, công chức trong tổ chức này[7].
Thực hiện quy định tại khoản 3 Điều này, ngày 26-2-2007, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ra Quyết định số 03/2007/QĐ-BNV về việc ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương,
trong đó quy định các chuẩn mực xử sự của cán bộ, công chức, viên chức
khi thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội, bao gồm những
việc phải làm hoặc không được làm nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách
nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời Bộ Nội vụ đã phối hợp
với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến
binh Việt Nam và Hội Liên hiệp Việt Nam xây dựng quy tắc ứng xử của cán
bộ, công chức trong các tổ chức này.
b) Quy tắc đạo đức nghề nghiệp
Để góp phần phòng ngừa tham nhũng, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005
quy định việc xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp đối với một số nghề
đặc thù, hoạt động có tính chất độc lập như luật sư, kiểm toán viên. Mặc
dù đây không phải là những người thuộc đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức làm việc trong cơ quan nhà nước nhưng cũng cần có những quy định về
chuẩn mực đạo đức trong quá trình hành nghề cho phù hợp, nhằm hướng tới
một nền văn hoá phi tham nhũng trong toàn xã hội, cả trong khu vực công
lẫn khu vực tư.
Quy
tắc đạo đức nghề nghiệp là chuẩn mực xử sự phù hợp với đặc thù của từng
nghề bảo đảm sự liêm chính, trung thực và trách nhiệm trong việc hành
nghề. Luật phòng, chống tham nhũng quy định tổ chức xã hội -
nghề nghiệp phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quy
tắc đạo đức nghề nghiệp đối với hội viên của mình theo quy định của pháp
luật.
c) Vấn đề chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức
Việc
chuyển đổi vị trí công tác được coi là một giải pháp quan trọng nhằm
ngăn ngừa hiện tượng cấu kết, móc nối hình thành “êkíp”, “đường dây”
tiêu cực, tham nhũng. Điều 43 quy định một số nguyên tắc chung về chuyển
đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức. Để đảm bảo sự ổn
định của quản lý và tính chất chuyên sâu của công việc, việc chuyển đổi
chỉ là chuyển đổi về vị trí, mang tính chất địa lý, cơ học chứ không
phải chuyển đổi về nội dung, tính chất công việc; đồng thời việc chuyển
đổi chỉ thực hiện đối với một số vị trí quản lý tiền, tài sản của Nhà
nước hoặc trực tiếp tiếp xúc, giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức,
cá nhân. Đây là một biện pháp mới trong công tác phòng, chống tham nhũng được nhiều nước áp dụng có hiệu quả.
Khoản 1, Điều 43, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005
quy định: Cơ quan, tổ chức, đơn vị, theo thẩm quyền quản lý có trách
nhiệm thực hiện việc định kỳ chuyển đổi cán bộ, công chức, viên chức làm
việc tại một số vị trí liên quan đến việc quản lý ngân sách, tài sản
của Nhà nước, trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan tổ
chức, đơn vị, cá nhân nhằm chủ động phòng ngừa tham nhũng[8].
Cần
lưu ý, việc chuyển đổi vị trí công tác và luân chuyên cán bộ có sự khác
biệt. Luân chuyển cán bộ là chính sách của Đảng trong công tác cán bộ
nhằm đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo để họ có điều kiện nâng
cao trình độ hiểu biết và đủ năng lực thực tiễn đáp ứng được yêu cầu của
người lãnh đạo, quản lý. Chuyển đổi vị trí công tác là để tránh việc
cán bộ, công chức, viên chức do làm lâu ở một vị trí sẽ tìm ra được kẽ
hở hay những khiếm khuyết của cơ chế chính sách để tìm cách lợi dụng
tham nhũng. Hoặc do làm lâu ở một vị trí nên tìm cách móc nối với những
người có liên quan để thực hiện những hành vi tham nhũng tinh vi, khó
phát hiện và ngăn chặn. Chẳng hạn, giữa những người cùng tổ thu thuế,
giữa người thu thuế và người nộp thuế thoả thuận bớt xén số thuế lẽ ra
phải nộp... Ngoài ra, việc chuyển đổi vị trí công tác phải dựa trên
những nguyên tắc nhất định chứ không thể chuyển đổi một cách tuỳ tiện.
Việc chuyển đổi vị trí công việc không làm thay đổi tính chất công việc
mà cán bộ, công chức, viên chức đó đang thực hiện và phải phù hợp với
chuyên môn, trình độ nghiệp vụ của người được chuyển đổi. Chẳng hạn, một
nhân viên thu thuế nông nghiệp có thể chuyển sang thu thuế công thương
nghiệp; một nhân viên có trách nhiệm theo dõi thu thuế của địa bàn A có
thể chuyển sang theo dõi địa bàn B; một cảnh sát khu vực này có thể sang
làm cảnh sát khu vực khác... Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 có
quy định: Việc chuyển đổi vị trí công tác… chỉ áp dụng đối với cán bộ,
công chức, viên chức không giữ chức vụ quản lý. Việc luân chuyển cán bộ,
công chức giữ chức vụ quản lý thực hiện theo quy định về luân chuyển
cán bộ[9].
Cụ thể hoá quy định này, ngày 27-10-2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 158/2007/NĐ-CP quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Với việc ban hành Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998,
Việt Nam đã thực hiện việc kê khai tài sản - một nội dung của cơ chế
minh bạch tài sản. Tuy nhiên, cho đến nay, hệ thống minh bạch tài sản ở
Việt Nam vẫn chỉ dừng lại ở kê khai tài sản đơn thuần, còn thiếu nhiều
yếu tố để Nhà nước có thể kiểm soát chặt chẽ tài sản, thu nhập của cán
bộ, công chức. Luật phòng, chống tham nhũng đã quy định một cách
khá toàn diện và đầy đủ những nội dung cơ bản nhất của một hệ thống minh
bạch tài sản, bao gồm những vấn đề chính như sau:
-
Cán bộ, công chức phải kê khai tài sản hằng năm để tránh che giấu, tẩu
tán tài sản tham nhũng; ngoài việc kê khai tài sản của bản thân, cán bộ,
công chức còn phải kê khai tài sản của vợ hoặc chồng và con chưa thành
niên. Đối tượng tài sản phải kê khai được mở rộng hơn so với Pháp lệnh
chống tham nhũng.
-
Việc xác minh tài sản được tiến hành trong một số trường hợp nhất định.
Đây là một điểm mới so với Pháp lệnh chống tham nhũng. Khi xem xét đề
bạt, bổ nhiệm, bầu cử hoặc có hành vi tham nhũng thì thủ trưởng cơ quan
tổ chức việc xác minh tài sản để xem cán bộ, công chức có kê khai trung
thực hay không.
-
Bản kết luận về sự minh bạch trong kê khai tài sản được công khai trong
một số trường hợp nhất định theo yêu cầu và trên cơ sở quyết định của
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
-
Người có nghĩa vụ kê khai tài sản sẽ phải chịu trách nhiệm kỷ luật nếu
kê khai không trung thực, nếu là người ứng cử thì sẽ bị loại khỏi danh
sách bầu cử, người được dự kiến bổ nhiệm, phê chuẩn thì sẽ không được bổ
nhiệm, phê chuẩn vào chức vụ dự kiến.
So với Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đưa ra một số nội dung mới:
Một là,
không chỉ kê khai tài sản của cá nhân cán bộ, công chức mà kê khai tài
sản của cả vợ và con chưa thành niên để ngăn chặn việc phân tán tài sản
tham nhũng, tránh sự phát hiện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hai là, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định việc xác minh tài sản trong những trường hợp nhất định khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ba là, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định về việc công khai kết luận về tính minh bạch trong kê khai tài sản.
Với tinh thần như trên, việc minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức đã khác với trước kia chỉ quy định về kê khai tài sản thu nhập của cán bộ, công chức, nay mục tiêu là tiến tới minh bạch tài sản cán bộ, công chức. Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005
không đặt vấn đề công khai bản kê khai tài sản mà chỉ quy định công
khai kết luận về tính minh bạch, trung thực của việc kê khai sau khi đã
tiến hành xác minh theo các hình thức và ở những nơi thích hợp.
Về đối tượng có nghĩa vụ phải kê khai, theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005,
không phải mọi cán bộ, công chức đều phải có nghĩa vụ kê khai tài sản,
mà chỉ cán bộ có chức vụ từ phó trưởng phòng của cấp huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên hoặc tương đương trong các cơ quan, tổ
chức, đơn vị và cán bộ, công chức làm tại một số vị trí nhất định (sẽ do
Chính phủ quy định).
Về
tài sản phải kê khai,tài sản kê khai bao gồm 4 nhóm loại: nhà, quyền sử
dụng đất; kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá trị và các loại tài
sản khác mà giá trị của mỗi loại từ năm mươi triệu đồng trở lên; tài
sản, tài khoản ở nước ngoài; thu nhập phải chịu thuế theo quy định của
pháp luật.
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005
còn quy định việc xác minh tài sản là để đánh giá về tính trung thực
của việc kê khai, góp phần đánh giá cán bộ, công chức hoặc người tham
gia ứng cử vào các cơ quan quyền lực để bảo đảm bộ máy nhà nước có một
đội ngũ cán bộ trung thực, liêm chính, không tham nhũng. Qua xác minh,
nếu người bị kết luận là không trung thực trong kê khai tài sản, thu
nhập thì tuỳ theo tính chất, mức độ mà bị xử lý bằng một trong các hình
thức kỷ luật sau: khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc lương; hạ ngạch. Đối với
người kê khai tài sản, thu nhập không trung thực là người ứng cử đại
biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân, người dự kiến được bầu, phê
chuẩn tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại hội của tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, người dự kiến được phê chuẩn, bổ nhiệm thì bị
xử lý như: bị xoá tên khỏi danh sách người ứng cử, không được bầu, phê
chuẩn, bổ nhiệm.
Đề cao trách nhiệm người đứng đầu là một yếu tố quan trọng trong quản lý nhà nước và chống tham nhũng nói riêng. Luật phòng, chống tham nhũng quy định một cách chi tiết về vấn đề này, bao gồm những nội dung chính sau:
-
Phân định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức với cấp phó
được giao phụ trách các lĩnh vực; theo đó, người đứng đầu chịu trách
nhiệm chung và chịu trách nhiệm trực tiếp đối với lĩnh vực do mình quản
lý, cấp phó chịu trách nhiệm trực tiếp đối với lĩnh vực được giao phụ
trách.
-
Phân cấp trách nhiệm rõ ràng cho người đứng đầu đơn vị, phải chịu trách
nhiệm trực tiếp khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong đơn vị mình.
Để
tạo cơ sở xử lý trách nhiệm người đứng đầu, trong kết luận thanh tra,
kiểm toán, điều tra phải có kết luận về trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi xảy ra tham nhũng là yếu kém trong quản lý,
buông lỏng quản lý hay bao che cho hành vi tham nhũng.
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã
khẳng định lại nguyên tắc: “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách”[10].
Trên cơ sở nguyên tắc chung như trên, Luật cũng quy định tuỳ từng
trường hợp cụ thể mà xác định mức độ trách nhiệm khác nhau của người
đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, có
trường hợp họ phải chịu trách nhiệm trực tiếp, có trường hợp thì liên
đới chịu trách nhiệm.
Mặc
dù đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đối
với việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do
họ phụ trách nhưng do tính chất phức tạp của tệ nạn tham nhũng cho nên Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005
cũng quy định việc loại trừ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị trong những trường hợp bất khả kháng, những hành vi tham
nhũng vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của người lãnh đạo quản lý,
trường hợp họ không thể biết được hoặc đã áp dụng các biện pháp cần
thiết để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tham nhũng.Ngoài ra, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005
quy định nguyên tắc về việc xử lý đối với người đứng đầu và cá nhân có
trách nhiệm trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức khác có sử dụng ngân sách nhà nước
để xảy ra hành vi tham nhũng thì được thực hiện theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 này và điều lệ, quy chế của tổ chức đó.
Để
tạo điều kiện cho việc xử lý người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
khi để xảy ra hành vi tham nhũng, Luật quy định trong kết luận thanh
tra, kết luận kiểm toán, kết luận điều tra vụ việc, vụ án tham nhũng,
phải nêu rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để
xảy ra hành vi tham nhũng theo các mức độ sau đây:
- Yếu kém về năng lực quản lý;
- Thiếu trách nhiệm trong quản lý;
- Bao che cho người có hành vi tham nhũng.
Kết luận phải được gửi cho Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Cụ thể hóa những quy định trên của Luật phòng, chống tham nhũng, ngày 22-9-2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 107/2006/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định 107) quy
định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi
để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ
trách. Nghị định 107 quy định mức độ của vụ, việc tham nhũng làm căn cứ để xác định trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Vụ, việc tham nhũng được chia theo các mức độ sau đây:
-
Tham nhũng ít nghiêm trọng là vụ, việc mà trong đó người có hành vi
tham nhũng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự và bị xử phạt bằng hình thức cải tạo không giam giữ
đến 3 năm hoặc bị phạt tù đến 3 năm;
- Tham nhũng nghiêm trọng là vụ, việc mà trong đó người có hành vi tham nhũng bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm;
- Tham nhũng rất nghiêm trọng là vụ, việc mà trong đó người có hành vi tham nhũng bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm;
-
Tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng là vụ, việc mà trong đó người có hành
vi tham nhũng bị phạt tù từ 15 năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình.
Về việc xác định các hình thức kỷ luật cụ thể:
-
Hình thức khiển trách được áp dụng trong trường hợp người đứng đầu, cấp
phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ, việc tham
nhũng nghiêm trọng hoặc nhiều vụ, việc tham nhũng ít nghiêm trọng trong
cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
-
Hình thức cảnh cáo được áp dụng trong trường hợp người đứng đầu, cấp
phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ, việc tham
nhũng rất nghiêm trọng hoặc nhiều vụ, việc tham nhũng nghiêm trọng trong
cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
-
Hình thức cách chức được áp dụng trong trường hợp người đứng đầu, cấp
phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ, việc tham
nhũng đặc biệt nghiêm trọng hoặc nhiều vụ, việc tham nhũng rất nghiêm
trọng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
Vấn
đề xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy
ra tham nhũng rất phức tạp liên quan đến phân cấp quản lý cán bộ và
việc lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ. Về nguyên tắc, cán bộ lãnh đạo, quản lý
phải chịu trách nhiệm về việc làm của cấp dưới thuộc quyền. Nhưng nguyên
tắc này chỉ hợp lý và chỉ có thể thực hiện được khi người đứng đầu được
quyền lựa chọn cấp dưới của mình. Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã chỉ rõ cần “Sửa
đổi, bổ sung quy định về bổ nhiệm, phân cấp quản lý cán bộ theo hướng
tăng quyền hạn cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức gắn với trách nhiệm
cá nhân trong việc lựa chọn, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cấp phó và
cán bộ cấp dưới trực tiếp trên cơ sở thảo luận dân chủ trong tập thể
lãnh đạo. Nghiên cứu cơ chế thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên bổ
nhiệm thủ trưởng cơ quan hành chính cấp dưới”.
Chiến
lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 cũng nhấn mạnh vấn
đề trách nhiệm của người đứng đầu thể hiện ở giải pháp: Thực hiện phân
công, phân cấp rõ ràng; quy định cụ thể, rành mạch chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mỗi cấp quản lý, khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống
trong hoạt động quản lý. Quy định chức trách của từng vị trí công tác,
nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong cơ quan, tổ chức, đơn vị và
căn cứ vào kết quả thực hiện chức trách đó để đánh giá cán bộ, công
chức.
Quản
lý là phương diện hoạt động quan trọng và sôi động nhất của bộ máy nhà
nước, diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và ảnh hưởng đến
quyền lợi của mọi người dân. Đây cũng là nơi tình trạng tham nhũng xảy
ra nhiều nhất. Đó là lý do mà cải cách hành chính luôn là mối quan tâm
thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình cải cách bộ máy nhà
nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân như đã được ghi nhận trang trọng tại Hiến pháp năm 1992; sửa đổi, bổ sung năm 2001.
Cải cách hành chính là công việc có tính chất thường xuyên, lâu dài,
liên tục với mục tiêu xây dựng một nền hành chính trong sạch, hiện đại,
hoạt động có hiệu quả, hiệu lực và thể hiện tính phục vụ. Cải cách hành
chính bao gồm rất nhiều nội dung phong phú và toàn diện, từ cải cách thể
chế, tổ chức bộ máy, quản lý và sử dụng cán bộ công chức, quản lý tài
chính công...
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005
chỉ đề cập đến một số khâu quan trọng cần lưu ý trong quá trình tiến
hành cải cách hành chính để góp phần phòng ngừa tham nhũng. Trong đó có
nội dung Nhà nước thực hiện cải cách hành chính nhằm tăng cường tính độc
lập và tự chịu trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị; đẩy mạnh việc
phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp
chính quyền địa phương; phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ
quan nhà nước; công khai, đơn giản hoá và hoàn thiện thủ tục hành chính;
quy định cụ thể trách nhiệm của từng chức danh trong cơ quan, tổ chức,
đơn vị.
Thực
hiện quy định này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 53/2007/NQ-CP
ngày 7-1-2007 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoáng X
về đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của
bộ máy nhà nước đặt ra yêu cầu các bộ, ngành, địa phương đã đẩy mạnh
công tác rà soát thủ tục hành chính để sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ
những quy định không còn phù hợp; công khai các thủ tục hành chính, thực
hiện cơ chế “một cửa” và “một cửa
liên thông” trong việc giải quyết công việc của người dân và doanh
nghiệp đến cấp xã, áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001:2000 vào quản lý hành
chính.
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 cũng
quy định có tính chất định hướng cho các cơ quan nhà nước áp dụng khoa
học - công nghệ trong quản lý nhằm giảm bớt cơ hội và nguy cơ xảy ra
tham nhũng, nhất là việc tiếp xúc trực tiếp giữa người quản lý và người
bị quản lý trong những trường hợp không cần thiết. Theo đó, cơ quan, tổ
chức, đơn vị thường xuyên cải tiến công tác, tăng cường áp dụng khoa học
- công nghệ trong hoạt động của mình, tạo thuận lợi để công dân, cơ
quan, tổ chức, đơn vị thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ
quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm hướng dẫn trình tự, thủ tục giải
quyết công việc để cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân chủ động thực hiện
mà không phải trực tiếp tiếp xúc với cán bộ, công chức, viên chức.
Một giải pháp phòng ngừa tham nhũng quan trọng nữa mà Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 có
quy định đó là vấn đề đổi mới phương thức thanh toán. Hiện nay, về cơ
bản nền kinh tế của chúng ta vẫn là nền kinh tế tiền mặt, các giao dịch
chủ yếu bằng tiền mặt, rất khó kiểm soát, kể cả các khoản thu nhập của
cán bộ, công chức từ ngân sách nhà nước. Vì vậy, cùng với việc áp dụng
khoa học - công nghệ trong quản lý, cần phải đổi mới phương thức thanh
toán để kiểm soát chặt chẽ hơn các giao dịch, nhất là những khoản chi có
sử dụng ngân sách nhà nước và các khoản chi liên quan đến cán bộ, công
chức, viên chức để bảo đảm sự minh bạch trong các nguồn thu nhập của họ.
Cụ thể là:
-
Nhà nước áp dụng các biện pháp quản lý để thực hiện việc thanh toán
thông qua tài khoản tại ngân hàng, kho bạc nhà nước. Cơ quan, tổ chức,
đơn vị có trách nhiệm thực hiện các quy định về thanh toán bằng chuyển
khoản.
-
Chính phủ áp dụng các giải pháp tài chính, công nghệ, tiến tới thực
hiện mọi khoản chi đối với người có chức vụ, quyền hạn... và các giao
dịch khác có sử dụng ngân sách nhà nước phải thông qua tài khoản.
Đến
nay, việc trả lương qua tài khoản cho cán bộ, công chức, viên chức đã
từng bước được thực hiện theo Chỉ thị số 20/2007/CT-TTg ngày 24-8-2007
của Thủ tướng Chính phủ về việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Vấn
đề cải cách hành chính cũng được đề cập rất cụ thể trong Chiến lược
quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, đặc biệt là trong nhóm
giải pháp về tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạch định chính
sách, xây dựng và thực hiện pháp luật và giải pháp về hoàn thiện chế độ
công vụ, công chức, nâng cao chất lượng thực thi công vụ. Chiến lược
yêu cầu:
-
Minh bạch hóa quá trình soạn thảo, trình, ban hành chính sách, pháp
luật; quá trình chuẩn bị, trình, ban hành quyết định, văn bản hành chính
gắn liền với việc cải cách thủ tục hành chính.
-
Thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng; quy định cụ thể, rành mạch chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp quản lý, khắc phục tình trạng
chồng chéo, bỏ trống trong hoạt động quản lý.
-
Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định về tuyển dụng, tiếp
nhận, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức; xử lý kiên quyết, kịp thời các vi phạm trong quản lý
và sử dụng cán bộ, công chức;
-
Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện cơ chế về trách nhiệm giải trình của
cán bộ, công chức, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý; cơ chế miễn
nhiệm, bãi nhiệm, cho từ chức, tạm đình chỉ chức vụ của người đứng đầu
khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý,
phụ trách;
-
Cải cách cơ bản chế độ tiền lương, phụ cấp bảo đảm để cán bộ, công chức
có mức thu nhập tương đương mức thu nhập khá trong xã hội; thực hiện
chính sách tiền lương hợp lý trong một số lĩnh vực đặc thù; nghiên cứu
bổ sung chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức...