1. Thế giới đang trải qua một thời kỳ có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau quyết liệt, giành vị thế và lợi ích gây ra tình hình phức tạp tại nhiều khu vực và nhiều nước.
Xung đột dân tộc, tôn giáo, khủng bố quốc tế, chiến tranh cục bộ, chiến
tranh kinh tế, chiến tranh mạng, các hoạt động can thiệp, lật đổ, bất
tuân dân sự, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên… diễn ra dưới
những hình thức mới, gay gắt hơn. Những
vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống như: an ninh lương thực, an
ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng,
biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, v.v.. diễn biến nghiêm trọng.
Chủ nghĩa dân tuý, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng
gia tăng mạnh mẽ trong quan hệ quốc tế. Luật pháp quốc tế và các thể chế
đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn.
Nhìn
toàn cục, sau 30 năm kết thúc Chiến tranh lạnh, trong những mức độ khác
nhau, thế giới chưa bao giờ im tiếng súng. Những loại vũ khí giết người
hàng loạt vẫn được đua nhau sản xuất và nguy hiểm hơn là được đưa tới
những điểm nóng. Việc đe dọa vũ lực và sử dụng vũ lực vẫn được nhiều thế
lực xác định là công cụ quan trọng để đạt mục tiêu bành trướng, áp đặt.
Xu hướng tập
hợp lực lượng, liên kết - đấu tranh vì lợi ích quốc gia - dân tộc diễn
ra gay gắt, đặt các nước đang phát triển, nhất là những nước vừa và nhỏ,
trước nhiều sức ép, đặc biệt dưới tác động của cạnh tranh địa chính trị
giữa các nước lớn.
Trong
bối cảnh đó, sự gắn kết về lợi ích gia tăng cùng với nhận thức về trách
nhiệm chung trong giải quyết những vấn đề toàn cầu trở thành yếu tố
thuận lợi cho không khí hợp tác và đối thoại. Cùng với xu thế đa cực hóa
và dân chủ hóa quan hệ quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh, các dân tộc nâng
cao ý thức độc lập, tự chủ, tự cường, ngăn ngừa những hành vi áp đặt và
can thiệp của các thế lực cường quyền; các nước có cơ hội để triển khai
hiệu quả chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, tranh thủ các
nguồn lực bên ngoài để phát triển.
Kinh
tế thế giới vừa được phục hồi một bước sau khủng hoảng tài chính và suy
thoái toàn cầu song tốc độ tăng trưởng đang chậm lại, tiềm ẩn nguy cơ
khủng hoảng và suy thoái. Chiến tranh thương mại, tranh giành các nguồn
tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước
ngày càng quyết liệt.
Cách thức giải quyết, ứng phó các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh sau
khủng hoảng, nhất là về ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội,
cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chú trọng đổi
mới sáng tạo, là những kinh nghiệm quý giúp các nước vượt qua được những
thách thức đó để phát triển nhanh và bền vững.
Cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội
nhập quốc tế đang là hai xu thế lớn, chi phối sâu sắc tiến trình phát
triển của nhân loại. Những đột phá công nghệ diễn ra nhanh chóng trong
nhiều lĩnh vực, như: trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, cơ sở dữ liệu
lớn, Internet kết nối vạn vật, robots, công nghệ in 3 chiều, công nghệ
nano, công nghệ sinh học, lưu trữ năng lượng, v.v.., đem đến sự thay đổi
vượt bậc cho chất lượng cuộc sống, việc làm và sản xuất, kinh doanh. Sự
đan xen của các quá trình hội nhập đưa thế giới đến một “cấu trúc ma
trận” các hiệp định tự do thương mại (FTA) trên nhiều tuyến và nhiều cấp
độ, trong đó phải kể đến các FTA thế hệ mới.
Xu
thế đổi mới công nghệ diễn ra nhanh, đặt ra nguy cơ lớn về tụt hậu song
cũng là điều kiện cho các nước đi sau thực hiện các bước phát triển rút
ngắn qua việc tận dụng những thành quả phát triển của nhân loại. Tuy
không có ưu thế về công nghệ, vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao, kinh
nghiệm quản lý và điều hành nền kinh tế, v.v.. như các nước phát triển,
nhưng nhờ hội nhập và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, các nước
đang phát triển có thể huy động và phân bổ hiệu quả hơn các nguồn lực,
tiếp nhận kiến thức, công nghệ và kinh nghiệm quốc tế, để thực hiện “đi
tắt, đón đầu”.
Tuy
nhiên, toàn cầu hoá gắn liền với chủ nghĩa tự do mới đang làm gia tăng
bất bình đẳng xã hội. Sự bùng nổ của phong trào “Chiếm Phố Wall” tại Mỹ,
sự ủng hộ của người dân Anh đối với phương án rời khỏi EU (Brexit), làn
sóng biểu tình áo vàng tại Pháp, v.v.. cho thấy trong lúc toàn cầu hóa
mang lại sự giàu có cho một số ít người thì vẫn có một số đông dân chúng
bị đẩy ra bên lề xã hội.
Xu
hướng co cụm xuất hiện ngay cả ở những nền kinh tế lớn như thể hiện qua
chính sách “Nước Mỹ trên hết” của Tổng thống Donald Trump đang làm suy
yếu tiến trình đa phương. Bởi vậy, các nước đang hướng về những cách
tiếp cận như “toàn cầu hóa bao trùm”, “toàn cầu hóa 4.0” để định hình
những chuẩn mực, quy tắc mới về quản trị toàn cầu với yêu cầu phải quan
tâm hơn tới những người bị bỏ lại phía sau trong tiến trình phát triển
và hội nhập.
Khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, tiếp tục phát triển năng động
có vị trí địa kinh tế - chính trị ngày càng quan trọng. Đây cũng là địa
bàn cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các cường quốc, thể hiện qua
những sáng kiến và kế hoạch lớn như Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do
và rộng mở, Vành Đai con đường, v.v... buộc các nước vừa và nhỏ phải lựa
chọn đối sách tham gia. Các hành vi đơn phương, chính trị cường quyền
nước lớn và tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực, nhất
là trên Biển Đông diễn ra căng thẳng, phức tạp hơn. ASEAN
đã trở thành một lực lượng được các nước ngày càng coi trọng, đóng vai
trò trung tâm trong tăng trưởng kinh tế, bảo đảm môi trường hòa bình và
an ninh khu vực. Tuy nhiên, sự tranh thủ lôi kéo, gây sức ép và can
thiệp của các nước lớn, cùng với những tính toán lợi ích riêng của một
số nước thành viên, là yếu tố cản trở ASEAN có tiếng nói chung trong một
số vấn đề khu vực, tác động không nhỏ đến tính thống nhất của tổ chức
này. Tiểu vùng Mêkông tiếp tục là điểm sáng về tăng trưởng kinh tế nhờ
quá trình mở cửa, cải cách, chuyển đổi sang cơ chế thị trường và tăng
cường hợp tác xuyên biên giới; song các vấn đề về ô nhiễm môi trường,
khan hiếm nguồn nước ngọt và nước biển dâng đang là thách thức không nhỏ
đối với mục tiêu phát triển bền vững của các nước trong tiểu vùng.
2.
Sự biến đổi của tình hình thế giới, khu vực đem lại cả thuận lợi và
thời cơ, khó khăn và thách thức đan xen, đặt ra nhiều yêu cầu mới đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong
ngắn hạn, môi trường quốc tế vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất định cho quá
trình phát triển, đòi hỏi Việt Nam phải khẩn trương nâng cấp công tác dự
báo và tăng cường năng lực nội tại để kịp thời xử lý được những tình
huống phức tạp nảy sinh. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền trên Biển Đông
tiếp tục là thách thức lớn đối với an ninh và phát triển của Việt Nam.
Sự gia tăng chủ nghĩa đơn phương và quan hệ “bất thường” của các nước
lớn đặt Việt Nam trước những rủi ro về đối ngoại. Đứng ở một vị trí địa
chiến lược quan trọng, việc lựa chọn phương cách ứng xử, tìm ra cách
tiếp cận hợp lý, xác lập lòng tin, chia sẻ lợi ích và đảm bảo chủ quyền
luôn là thách thức đối với Việt Nam trong nỗ lực duy trì quan hệ cân
bằng và tốt đẹp với các nước lớn.
Các
vấn đề toàn cầu và mất an ninh phi truyền thống sẽ tác động trực tiếp
đến Việt Nam ngày một sâu sắc hơn. Đặc biệt, Việt Nam là một trong những
nước bị tổn thương nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu toàn cầu và nước
biển dâng. Các áp lực về chuyển đổi phương thức phát triển trong bối
cảnh thiếu hụt về tài nguyên, năng lượng,… rất có thể sẽ đặt nền kinh tế
Việt Nam trước nhiều khó khăn. Việc nâng cao năng lực “thích ứng” với
biến đổi khí hậu, nhất là chuẩn bị nguồn lực để sẵn sàng ứng phó với các
tình huống khẩn cấp, thiên tai thường xuyên xảy ra, sẽ là thách thức
lớn. Tuy nhiên, những phương thức và mô hình phát triển mới như: tăng
trưởng xanh; phát triển kinh tế sinh thái, kinh tế tuần hoàn, kinh tế
chia sẻ, v.v.. cùng với tiến bộ khoa học công nghệ cũng đang mang lại
cho nền kinh tế Việt Nam nhiều sự lựa chọn để tăng trưởng nhanh và bền
vững.
Trong
dài hạn, nhìn chung các xu hướng phát triển có ảnh hưởng tích cực cho
sự cất cánh của Việt Nam. Các chương trình nghị sự về tăng trưởng bao
trùm, phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế nhân văn của thế giới
gợi mở cho Việt Nam tư duy và tầm nhìn mới để đảm bảo công bằng và hoà
nhập trong việc hưởng thụ các thành quả của tăng trưởng kinh tế.
Việt
Nam có cơ hội tốt để trở thành cửa ngõ quan trọng của một khu vực kinh
tế năng động, tiếp cận với các thị trường lớn của thế giới khi thiết lập
được một mạng lưới FTA rộng khắp và khai thác chiến lược Trung Quốc+1
của các nhà đầu tư quốc tế(1).. Tuy nhiên, tiến
trình hội nhập cũng đang gây ra sức ép điều chỉnh chính sách theo nhiều
kênh, nhiều tuyến, tạo ra tác động nhiều chiều, khó kiểm soát. Bản
thân các FTA không bảo đảm cho nền kinh tế Việt Nam vượt lên khỏi phân
khúc thấp của chuỗi giá trị toàn cầu hay đem lại nhiều việc làm có năng
suất cao hơn bởi những điều này lại chủ yếu phụ thuộc vào tiến độ hoàn
thiện thể chế phát triển trong nước.
Việt Nam có lợi thế của nước đi sau khi có thể đi thẳng vào phát triển những lĩnh vực mới của nền kinh tế số; song đây cũng là thách thức lớn nếu mô hình tăng trưởng vẫn theo chiều rộng, dựa vào vốn, lao động kỹ năng thấp và tài nguyên thiên nhiên. Giai đoạn vừa qua, mô hình này đã
tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho một bộ phận lớn dân cư, nhưng nếu
tiếp tục duy trì thì càng hội nhập sâu hơn, nền kinh tế Việt Nam sẽ
càng lệ thuộc vào bên ngoài, càng có nguy cơ lún sâu vào “bẫy gia công,
lắp ráp” và vướng vào những nấc thang thấp của chuỗi giá trị toàn cầu.
Thách thức đó yêu cầu nền kinh tế Việt Nam phải đẩy
nhanh sự chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng mới, dựa trên công nghệ và
đổi mới sáng tạo là những yếu tố không có trần giới hạn.
Nhìn lại gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới và gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011, Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ,
toàn diện, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; chưa
bao giờ đất nước có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.
Việc
xác định trở thành một quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa mở ra một giai đoạn mới, đồng thời thể hiện tính liên tục và hoàn
chỉnh trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. “Định hướng xã hội chủ nghĩa” chính
là nét đặc sắc nổi bật, thể hiện bản chất nhân văn, tiến bộ; sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là đặc trưng quan trọng nhất trong
việc thực hiện tầm nhìn phát triển Việt Nam.
|
Mặc
dù đã được thu hẹp đáng kể, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam
vẫn thua Hoa Kỳ hơn 25 lần; Singapore 24 lần; Nhật Bản 16 lần; và các
nước OECD 16 lần(2).
Việt Nam chưa thể tái lập được kỳ tích phát triển của các nền kinh tế
Đông Á đi trước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan.
Nền
kinh tế Việt Nam hiện nay được đánh giá có triển vọng tốt, là một trong
những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới. Nếu duy
trì được đà tăng trưởng như 3 thập niên qua (7-8%/năm), Việt Nam đang
đứng trước cơ hội mang tính lịch sử để đạt được những bước ngoặt phát
triển trong 3 thập niên tới: 1) đến năm 2030 - kỷ niệm 100 năm ngày Đảng
Cộng sản Việt Nam thành lập, trở thành nước công nghiệp, thuộc nhóm
trên của các nước có thu nhập trung bình cao; 2) đến năm 2045 - kỷ niệm
100 năm Việt Nam độc lập (1945 - 2045), trở thành nước phát triển, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là tầm nhìn phát triển đất nước vừa
mang những giá trị Việt Nam, vừa mang những giá trị toàn cầu, và trước
hết là ý chí của dân tộc Việt Nam, do chính con người Việt Nam thực
hiện.
Để
thực hiện tầm nhìn đó, trước hết phải vững vàng trên nền tảng tư tưởng,
lý luận của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; kiên định sự lãnh đạo của Đảng; kiên định đường lối đổi mới của
Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định nhất quán quan điểm: Phát triển
kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh
là trọng yếu, thường xuyên.
Thứ nhất,
tiếp tục đổi mới tư duy, xây dựng thể chế phát triển đồng bộ cả về kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội và bảo vệ môi trường. Chú trọng hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hoá, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; tạo nền tảng để
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng
sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn
với tiến bộ, công bằng xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, không để người dân bị tụt lại phía sau trong
quá trình phát triển.
Thứ hai,
tăng cường xây dựng con người và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; phát huy nguồn lực văn hoá, con người Việt Nam thực sự
trở thành sức mạnh nội sinh của đất nước. Tạo môi trường và điều kiện
xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân
tộc, niềm tin, khát vọng phát triển, tài năng, trí tuệ, phẩm chất con
người Việt Nam với tư cách là trung tâm, mục tiêu và là động lực phát
triển quan trọng nhất.
Thứ ba,
kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, kỷ cương, bảo đảm an ninh
kinh tế, xã hội, an ninh mạng, an ninh con người. Chủ động ngăn ngừa các
nguy cơ chiến tranh, xung đột từ xa, từ sớm; phát hiện sớm và xử lý kịp
thời những nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố bên trong có thể gây
đột biến. Tiếp tục thực hiện hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa phương hoá, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
toàn diện, sâu rộng; là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế;
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao
uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam.
Thứ tư,
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện, nâng cao năng lực lãnh
đạo - cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là đội ngũ cán bộ
cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ;
làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác kiểm tra, giám
sát và dân vận của Đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của
sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa./.
___________________________
(1)
Xu hướng các nhà đầu tư chuyển dịch đầu tư ra những nước gần Trung Quốc
để tận dụng lao động giá rẻ, tránh được các rủi ro chính trị, đồng thời
vẫn khai thác được thị trường Trung Quốc và tận dụng được hệ thống công
nghiệp phụ trợ phát triển của nước này.
(2)
Phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Phiên giải trình
và trả lời chất vấn kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XIV, ngày 1-11-2018.
GS. TS. Nguyễn Xuân Thắng
Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương,
Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh