GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
Trong
quá trình đổi mới, đất nước ta đã có những đổi thay lớn, đặc biệt trên
lĩnh vực đời sống vật chất. Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đã làm thay đổi cấu trúc xã hội. Nhiều làng xã đã trở thành
phường, thị xã, thị trấn. Nhiều ngành nghề thủ công bị mai một. Một số
đông thanh niên ở các vùng nông thôn rời quê đi làm việc ở các khu công
nghiệp. Đời sống nông thôn trở nên vắng lặng. Các lễ hội truyền thống
hoặc bị lãng quên, hoặc được tổ chức một cách sơ sài, ít thu hút người
tham dự… Điều đáng quan tâm nhất là, nông thôn trước đây là nơi lưu giữ
những ký ức của các thế hệ người Việt Nam, hiện đang chuyển biến theo xu
hướng đô thị hóa. Mặc dù đó là những bước chuyển biến mang tính quy
luật, nhưng ẩn chứa và đi kèm theo đó là những nguy cơ và sự suy yếu của
các giá trị truyền thống trước xu thế hiện đại hóa đất nước.
Vì
vậy, vấn đề đầu tiên đặt ra có liên quan đến lĩnh vực văn hóa và con
người chính là phải giải quyết được mối quan hệ giữa truyền thống và
hiện đại.
Những
năm gần đây chúng ta đã nói nhiều đến vấn đề bản sắc dân tộc của văn
hóa, nhưng bản sắc đó là gì thì dường như cũng chưa thật rõ.
Về
vấn đề này, theo tôi, cần chỉ ra những giá trị cốt lõi trong văn hóa
truyền thống của dân tộc ta. Đó là những giá trị được hình thành từ thời
Hùng Vương dựng nước, được lưu giữ qua nhiều thời kỳ lịch sử đến thời
đại Hồ Chí Minh. Khi Bác Hồ nói: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”,
thì câu đó không chỉ có ý nghĩa phải bảo vệ lấy giang sơn đất nước này,
mà còn phải giữ lấy đạo lý làm người mà tổ tiên ta đã tạo nên. Đạo lý
đó chính là những giá trị văn hóa cội nguồn của dân tộc.
Những
giá trị cội nguồn từ thời Hùng Vương, đã được các thế hệ người Việt Nam
trước đây giữ gìn, bổ sung và phát triển để tạo nên truyền thống văn
hiến “như nước Đại Việt ta từ trước / vốn xưng nền văn hiến đã lâu” mà Nguyễn Trãi đã từng khẳng định trong “Đại Cáo bình Ngô”.
Trong
tình hình hiện nay, có thể nói sự hiểu biết của đại bộ phận nhân dân
(kể cả cán bộ, đảng viên) về lịch sử dân tộc còn quá thiếu sót. Rõ ràng
chúng ta chưa thực hiện được mong muốn của Bác Hồ:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
Không
hiểu lịch sử thì không thể rút ra những bài học bổ ích (trong đó có bài
học làm người) mà các thế hệ cha anh trước đây đã để lại.
Vì
vậy, để khắc phục việc xa rời các giá trị truyền thống của dân tộc,
việc xây dựng một chương trình giáo dục lịch sử dân tộc cho toàn dân,
đặc biệt cho cán bộ đảng viên và thanh thiếu niên, sẽ có một ý nghĩa
quan trọng. Qua nội dung giáo dục đó, các thế hệ người Việt Nam hiện nay
sẽ có điều kiện yêu mến và tự hào hơn về truyền thống dân tộc, bớt đi
đầu óc sính ngoại, lai căng đang có nguy cơ lan rộng.
Việc
giáo dục các giá trị truyền thống sẽ góp phần quan trọng cho sự phát
triển đất nước hiện nay. Kinh nghiệm chỉ ra rằng nếu không hiểu biết
chúng ta từ đâu tới thì cũng khó xác định chúng ta sẽ đi về đâu, đặc
biệt trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
Việc
học tập các tấm gương sáng trong lịch sử dân tộc (đặc biệt qua các danh
nhân văn hóa) sẽ giúp chúng ta thường xuyên tự soi mình vào quá khứ vẻ
vang của dân tộc để tự sửa chữa, tu dưỡng bản thân, khỏi hổ thẹn với
tiền nhân. Cha ông ta đã để lại nhiều gương sáng không chỉ trong việc
lãnh đạo toàn dân làm nên những chiến công lớn, mà còn để lại nhiều tấm
gương sáng trong cuộc sống đời thường. Tại sao vua Lê Lợi lại từ chối
việc giao chức Tể tướng cho Lê Lễ, dù Lê Lễ có công rất lớn là đã cứu
thoát Lê Lợi và gia đình vua. Vua nói với Lê Lễ: “Nếu dồn mọi công lao
lại thì ngôi Tể tướng chẳng ngươi thì còn ai? Trẫm có tiếc gì ngươi, chỉ
vì tài của ngươi không xứng mà thôi”.
Vua Lê Thánh Tông lúc mới lên làm vua, dù bận trăm công nghìn việc, vẫn căn dặn triều đình tập trung lo hai việc: việc nông tang để dân có cái ăn, cái mặc và việc lễ nghĩa
để sửa tốt lòng dân. Vua cho đó là hai điều cốt yếu của chính sự. Bản
thân vua đã soạn ra 24 điều giáo huấn nhằm răn dạy mọi người sống theo
thuần phong mỹ tục. 24 điều giáo huấn đó được phổ biến rộng khắp các
thôn làng.
Những câu chuyện như vậy không ít trong lịch sử dân tộc.
Vì vậy, trong định hướng phát triển của đất nước, bên cạnh các nội dung dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng… cần nêu thêm một định ngữ: văn hiến
(văn hiến có nghĩa là có truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp). Chữ
văn hiến ở đây sẽ gợi nhớ tới truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp
của dân tộc ta. Truyền thống đó phải là điểm tựa để chúng ta tiến bước vào tương lai một cách chủ động và tự tin.
Một xã hội có văn hiến sẽ là một xã hội trong đó các mối quan hệ xã
hội, từ trong phạm vi gia đình ra ngoài xã hội đều được giải quyết một
cách hài hòa, có nguyên tắc, có kỷ cương. Người có trọng trách cao càng
phải nêu gương tốt, các bậc cha mẹ, phụ huynh, thầy giáo đều phải làm
đúng thiên chức của mình.
Cần
coi việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
là một nội dung cốt lõi nhằm hình thành giá trị văn hiến ở nước ta trong
thời đại hiện nay. Cần học
tập Hồ Chí Minh về cách giải quyết mối quan hệ giữa truyền thống và
hiện đại: cái gì cũ mà tốt thì phải sử dụng, cái gì cũ mà tốt nhưng chưa
hay thì phải sửa cho hay. Cái gì xấu thì phải bỏ, cái gì tốt mà chưa có thì phải bổ sung.
|
XÂY HAI TRỤ CỘT: ĐẠO ĐỨC VÀ LUẬT PHÁP
Xây
dựng và phát triển văn hóa, con người đòi hỏi phải tự nguyện tự giác.
Nhưng điều đó không có nghĩa nằm ngoài sự quản lý của xã hội. Kinh
nghiệm của cha ông ta từ xưa đều đòi hỏi phải có sự thưởng phạt công
minh.
Để xây dựng và phát triển con người, từ xa xưa nhân loại đã hình thành hai cột trụ: đạo đức và luật pháp. Ta thường gọi là đức trị và pháp trị.
Nói đức trị là nói xử lý bằng nêu gương, bằng sự đánh giá của dư luận
xã hội. Nói pháp trị là nói xử lý bằng hình phạt. Khi đức trị và pháp
trị đều nghiêm minh thì xã hội bớt đi những hiện tượng tiêu cực.
Vua
Lê Thánh Tông có lần nói với các triều thần: “Trẫm không rõ ngày thường
các khanh ở nhà có băn khoăn lo lắng việc nước, không chút lơ là để uốn
sửa chỗ thiếu sót của trẫm không, hay chỉ tiêu dao dưỡng tính, mưu kiếm
lợi riêng, theo người đời mà tiến mà lui, để giữ bền quyền vị chăng?...
Từ nay về sau, kẻ nào còn quen thói nhơ bẩn như cũ, theo người ta mà
tiến mà lui, mưu giữ quyền vị, thì trẫm sẽ vì các khanh mà giết nó đi.
Kẻ nào theo lời dạy bảo, mà sửa bỏ lỗi trước đi, hết lòng thành tín, dốc
sức tận tâm, thì trẫm cũng sẽ vì các khanh mà khen thưởng họ”. Sự
nghiêm minh của nhà vua còn được thể hiện trong chế độ tiến cử quan lại. Vua ra lệnh: “Khi
khiếm khuyết các chức vụ, thì các quan khác phải vâng mệnh bảo cử những
ai có đủ tài, đức, có thể làm chức gì… trong khi đó các quan ở các
khoa, đài, phải cùng biên chép, ghi sổ rõ ràng. Sau này người được bảo
cử nếu không làm được việc, hư hỏng, thì phải tra xét viên quan nào đã
bảo cử người đó vào chức vụ”.
Nhờ
cách quản lý một cách nghiêm túc như vậy, thời Lê Thánh Tông đã hình
thành một đội ngũ quan lại vừa có kiến thức, vừa có đạo đức và trách
nhiệm để hoàn thành công việc mà nhà vua giao phó.
Những
kinh nghiệm hay mà người xưa để lại có thể coi là những bài học để
chúng ta khắc phục những thiếu sót, sai lầm trong xây dựng đội ngũ cán
bộ trong tình hình hiện nay. Tất nhiên công tác tổ chức cán bộ của chúng
ta hiện nay đã bước sang một quỹ đạo mới, không giống như chế độ quan
trường ngày xưa. Nhưng tinh thần khách quan, trung thực và tính trách
nhiệm cao mà người xưa để lại, vẫn có ý nghĩa rất quan trọng để chúng ta
vượt qua những thiếu sót, sai lầm thường xẩy ra. Ở nước ta hiện nay,
công tác cán bộ do tập thể cấp ủy quyết định, nên rất khó xử phạt hay
khen thưởng người tiến cử. Nhưng nghĩ cho cùng, trong tập thể đó vẫn có
người chịu trách nhiệm chính. Bác Hồ dạy: Công tác cán bộ là việc gốc
của Đảng. Vì vậy, trong tình hình hiện nay, việc đào tạo, bồi dưỡng và
sử dụng cán bộ cần được sự quan tâm của toàn Đảng, toàn dân. Bố trí sai
cán bộ sẽ làm hỏng mọi việc. Nên chăng dựa vào dân, vào dư luận của quần
chúng để thực hiện công tác cán bộ. Dân có điều kiện hiểu và đánh giá
đầy đủ một cán bộ nào đó, mà nhiều khi cơ quan hay tổ chức Đảng không có
điều kiện hiểu đầy đủ.
Vấn
đề đặt ra là một bộ phận nhân dân đã tỏ thái độ đối lập với cách làm
việc của một số cán bộ của chúng ta. Qua những vụ án liên quan đến tham
nhũng, tiêu cực, qua những biểu hiện bê bối của một bộ phận cán bộ lãnh
đạo, chúng ta thấy lòng tin của nhân dân bị tổn thương (không loại trừ
một số trường hợp bị kẻ xấu lợi dụng). Để mất lòng tin của dân là một
mất mát lớn nhất đối với chúng ta. Nguyên nhân thì đã rõ: do một số cán
bộ, kể cả cán bộ cấp cao đã làm trái chủ trương của Đảng, Chính phủ, họ
tìm cách vơ vét cho gia đình, họ hàng và phe nhóm của họ. Một số không
ít cán bộ, đảng viên đã quên lời dạy của Bác: cán bộ là đầy tớ của dân.
Họ đang trở thành những “quan cách mạng”. Họ không muốn học dân mà chỉ
muốn đi dạy dân. Họ quên mất đường lối quần chúng của Đảng ta: cái gì có
lợi cho dân thì phải hết sức mà làm, cái gì có hại cho dân thì phải
tuyệt đối tránh. Trong những công việc quá khó khăn, họ không biết dựa
vào dân, hỏi ý kiến của dân. Bác Hồ đã dạy: “Nhân dân biết giải quyết
một cách đơn giản các vấn đề khó khăn nhất, phức tạp nhất, mà nhiều khi
các bậc tài giỏi nghĩ mãi không ra”. Hiện tượng đề ra các chủ trương
chính sách mà chỉ ngồi trong phòng máy lạnh, như có người đã nói, rất
khó đáp ứng nguyện vọng của dân. Và chính điều đó cũng làm giảm lòng tin
của dân đối với Đảng, Chính phủ. Bác Hồ dạy chúng ta: “Chính sách của Nhà nước phải là đạo nghĩa của dân”. Hiểu và thực hiện lời dạy đó đang là vấn đề thời sự nóng hổi.
Xây dựng văn hóa và con người ở nước ta hiện nay đang gấp rút đòi hỏi phải nâng cao đức trị và pháp trị.
|
Đức
trị kém và pháp trị yếu cũng có thể coi là một trong những nguyên nhân
quan trọng làm cho xã hội trở nên bất an. Phải thấy rằng mặt trái của
kinh tế thị trường luôn có khả năng làm tha hóa con người. Cũng có thể
nói mặt trái đó đang tấn công dữ dội vào các nguyên tắc đạo đức, nó dung
dưỡng cho chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, vô cảm. Về pháp trị cũng
vậy. Luật pháp của chúng ta chưa góp phần điều tiết xã hội, mà còn chạy
theo thực tiễn. Bước vào kinh tế thị trường mà luật pháp còn yếu, chưa
đồng bộ, chưa kịp thời, thì sẽ bị mặt trái của kinh tế thị trường thao
túng.
Tình hình đó nếu không được khắc phục, thì sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người sẽ gặp rất nhiều trở ngại.
Khi văn hóa, con người chưa thực lành mạnh thì làm sao có thể mang lại sự phát triển bền vững của đất nước.
Cuộc
sống thường xuyên chỉ ra rằng khi một bộ phận xã hội rơi vào trạng thái
bất an, người lao động sẽ không thể toàn tâm toàn ý mang hết tâm lực,
của cải, tiềm năng sáng tạo của mình để đóng góp, tham gia vào quá trình
phát triển của đất nước. Chúng ta luôn khắc sâu lời dạy của Bác «Dễ
trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong». Xây dựng
và phát triển văn hóa, con người chính là phát huy sức mạnh nội sinh của
dân tộc. Đó là nguồn sức mạnh vô biên đã được lịch sử chứng minh. Đó
cũng là bài học lớn mà Bác Hồ thường xuyên căn dặn chúng ta./.
GS. TS. Trần Văn Bính