VÌ MỘT NƯỚC VIỆT NAM HÒA BÌNH, ĐỘC LẬP VÀ THỐNG NHẤT
Trên
hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới và
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(1).
Từ bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Người đã
lựa chọn và đứng trên lập trường của giai cấp vô sản để tiến hành giải
phóng dân tộc bằng một cuộc cách mạng vô sản và bước phát triển tiếp
theo là xây dựng chủ nghĩa xã hội khi nhấn mạnh: 1) Cách mạng phải đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp công
nhân và dân tộc; 2) Phải thực hiện Dân tộc cách mệnh để tập trung đánh đổ bọn đế quốc thực dân và bọn phong kiến tay sai giành lại độc lập cho xứ sở và Thế giới cách mệnh giống như giai cấp công nông Nga đánh đổ tư bản áp bức…
Luận
cứ để mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có thể trở thành
hiện thực sinh động ở Việt Nam chính là cách mạng giải phóng dân tộc
được đặt trong quỹ đạo cách mạng vô sản, là một bộ phận khăng khít của
cách mạng thế giới, trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội theo tinh thần khẩu hiệu chiến lược của Quốc
tế thứ III: “Vô sản giai cấp và dân tộc bị áp bức trong thế giới liên
hợp lại”! Đồng thời, “muốn cách mệnh thành công thì dân chúng (công
nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải
thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”(2) và “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”(3).
Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào mùa Xuân năm 1930, tư tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được khẳng định trong Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng. Con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội để đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa được chỉ rõ là: “Làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(4) -
tức là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ để thực hiện mục tiêu độc
lập dân tộc và người cày có ruộng, từng bước đưa đất nước tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Hai giai đoạn cách mạng này có quan hệ biện
chứng; trong đó: 1) Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải
giành được độc lập dân tộc. 2) Đi lên chủ nghĩa xã hội chính là điều
kiện tiên quyết để giữ vững được độc lập dân tộc và xây dựng được cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Dưới
ngọn cờ độc lập dân tộc có hướng đích chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã tập
hợp và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm
nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, sáng lập Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Nhận thức rõ, độc lập dân tộc, điều kiện đầu tiên để
xây dựng và phát triển đất nước chỉ được bảo đảm vững chắc khi gắn liền
với chủ nghĩa xã hội và giành được độc lập dân tộc mà không đi lên chủ
nghĩa xã hội thì chẳng những không bảo vệ được độc lập dân tộc mà còn
không thể mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, Đảng ta, nhân dân ta
kiên định mục tiêu đã lựa chọn.
|
Độc
lập, tự do và chủ nghĩa xã hội (giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ
nghĩa) - mục tiêu định hướng tương lai của dân tộc Việt Nam là sự lựa
chọn chính xác, đúng đắn của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam ngay
từ thập niên 1930, đã góp phần khơi nguồn sức mạnh của toàn dân tộc
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ, phát
triển đất nước.
Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội được Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển, phù
hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
Đại
hội lần thứ II của Đảng (1951) khẳng định, cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân Việt Nam sẽ tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa và nước
Việt Nam sẽ thành một nước xã hội chủ nghĩa. Dưới ánh sáng Nghị quyết
Đại hội lần thứ II của Đảng, cuộc trường chinh chống thực dân Pháp kéo
dài 9 năm (1946-1954) đã giành được thắng lợi. Song, với Hiệp định
Giơnevơ, miền Bắc Việt Nam được giải phóng đã từng bước khôi phục, cải
tạo kinh tế, xã hội, văn hóa và đi lên chủ nghĩa xã hội, còn ở miền Nam,
đồng bào ta tiếp tục thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng, thực hiện
khát vọng thống nhất nước nhà.
Đại
hội Đảng lần thứ III (1960) - Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà đã xác định
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là: Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, đẩy mạnh cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước, xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Hướng đến tương lai tươi sáng đó, cuộc đấu tranh đầy gian khổ sau 21 năm
gian nan, thử thách, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu
tranh cách mạng ở miền Nam đã kết thúc bằng cuộc Tổng tiến công nổi dậy
mùa Xuân năm 1975. Miền Nam được giải phóng, hai miền Nam - Bắc đã sum
họp một nhà và cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Lịch
sử thế giới hiện đại đã ghi nhận rằng, Việt Nam là nước đầu tiên tiến
hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản; đồng thời, cũng là nước đầu tiên đi lên chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện có chiến tranh. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân
Việt Nam tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở cả hai miền Nam
- Bắc, tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào miền Nam đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả
nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó cho thấy, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển tất yếu, làm nên thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng và đó cũng là sự nhất quán của Hồ Chí Minh,
của Đảng ta trong việc lựa chọn con đường phát triển của cách mạng Việt
Nam - con đường hợp xu thế phát triển thời đại.
|
Kể
từ khi nước nhà hòa bình, độc lập, thống nhất, non sông liền một dải
đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành 9 kỳ Đại hội. Trong suốt
hành trình đó, đặc biệt là sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước, độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội được Đảng ta, nhân
dân ta kiên định thực hiện, bất chấp sự chống phá điên cuồng của các thế
lực thù địch, bất chấp sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu. Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa luôn được thấm nhuần trong tư tưởng và hành động của mỗi
cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân Việt Nam; trở thành bài học đầu
tiên được Đảng rút ra tại Đại hội lần thứ VII (1991), đó là: “Nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt
trong quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên
quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo
vững chắc cho độc lập dân tộc”(5).
Tiếp đó, kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ VIII nhấn mạnh: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch
định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn,
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”(6).
Đại hội Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(7).
Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng khẳng định nhận
thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản; đồng thời, nhấn
mạnh bài học số một là: Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) tại Đại hội XI của Đảng (2011) đã rút
ra 5 bài học cơ bản và tiếp tục nhấn mạnh bài học đầu tiên như đã nêu
trong các văn kiện đại hội; đồng thời, khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã
hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử”(8).
Cương lĩnh nêu những nội dung cơ bản của con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta; bổ sung, phát triển những đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng cơ bản, 8 phương
hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết
tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều đó cũng
khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm vững chắc cho độc
lập dân tộc và là hai mặt không thể tách rời của con đường phát triển
đất nước, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
Như
vậy là, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn
cảnh khó khăn, thử thách nào, Đảng ta vẫn luôn kiên định độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lý luận và thực tiễn lịch sử cách
mạng Việt Nam đều khẳng định: con đường duy nhất đúng để đất nước phát
triển bền vững là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là sự
lựa chọn kiên quyết và đúng đắn, là sự kiên định và sáng tạo của Đảng ta
dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp quy luật, đúng như Đại hội
lần thứ XII (2016) của Đảng khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát
triển của lịch sử”(9).
Kiên
định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội càng đòi hỏi mỗi cán
bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; phải vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm lịch sử,
phát huy sức mạnh dân tộc, thời đại và sức mạnh nội sinh của dân tộc để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
|
Trong
bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, hơn bao giờ hết,
bài học phải “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trong quá trình đổi mới”(10),
tập trung giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, phản ánh quy luật đổi mới
và phát triển ở Việt Nam (giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế) càng
phải được thấm nhuần, chủ động và kiên trì thực hiện. Trước những thời
cơ, vận hội và khó khăn, thách thức đan xen, bên cạnh những thành tựu về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, chúng ta đang
phải đối mặt với những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên với các biểu hiện cá nhân chủ nghĩa,
tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tha hóa quyền lực trong Đảng
và hệ thống chính trị chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách triệt để.
Trong khi đó, trên bình diện quốc tế, tác động tiêu cực của bạo loạn lật
đổ chính quyền ở một số nước Bắc Phi, xung đột sắc tộc, tình trạng xâm
phạm chủ quyền quốc gia, tranh
chấp lãnh thổ và tài nguyên, nhất là vấn đề tranh chấp Biển Đông đang
diễn biến phức tạp. Các thế lực phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược
“diễn biến hòa bình”, lợi dụng mạng xã hội kích động biểu tình, bạo
loạn, lật đổ, chống phá quyết liệt công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Không chỉ lợi dụng các chiêu bài bôi nhọ, phủ nhận thành tựu
về mọi mặt của Việt Nam, các thế lực phản động còn phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản - nhân tố quyết định cho sự thành công của chủ
nghĩa xã hội; phủ nhận và cho rằng con đường đi lên xã hội chủ nghĩa là
sai lầm, dẫn đến nước nhà tụt hậu. Tất cả những yếu tố đó đã và đang đặt
ra yêu cầu vừa cấp thiết vừa kiên trì để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước và kiên định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Đón
nhận thời cơ và đối diện thách thức, Đảng ta và nhân dân ta nhất quán
thực hiện nguyên tắc đặt lợi quốc gia, dân tộc lên đầu, giữ vững độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chế độ chính trị
xã hội chủ nghĩa, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thế
giới dù có nhiều đổi thay, song Đảng ta, nhân dân ta luôn kiên định độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt,
không chỉ tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho con đường phát triển của
cách mạng Việt Nam mà còn là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, nhân nguồn sức mạnh
tinh thần, thống nhất về tư tưởng, ý chí, hành động của nhân dân ta, đấu
tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về những thành tựu trong công cuộc đổi
mới đã và đang trở thành hiện thực sinh động ở Việt Nam./.
____________________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, xuất bản lần thứ 3, t.9, tr.30.
(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.304, 312.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2007, t.51, tr.129-130.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996, tr.68.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.83.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tr.70.
(9), (10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2016, tr.16,17.
TS. Văn Thị Thanh Mai
Ban Tuyên giáo Trung ương
_____________________________
(Bài đăng trên Tạp chí Tuyên giáo số 9/2019)