Bài học từ
những cuộc “cách mạng màu” cho thấy không thể chủ quan, lơ là mà cần
phải chủ động nhận diện, ngăn chặn kịp thời những nhân tố lợi dụng
truyền thông xã hội để tác động đến ổn định chính trị, xã hội từ nhiều
hướng, nhiều cách thức khác nhau. Đó là một trong những nội dung được
nhấn mạnh trong bài viết "Truyền thông xã hội đối với ổn định chính trị, xã hội ở Việt Nam" của đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương. TCTG trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết.
Việt Nam đang là một quốc gia có chính trị, xã hội ổn định và trên đà phát triển
1.
Cuối năm 2018, khởi lên từ đoạn video của một nghệ sĩ accordion thể
hiện sự bất mãn về chính sách thuế được đưa lên mạng xã hội, những cuộc
biểu tình mang tên “Phong trào áo Vàng” đã gây khủng hoảng triền miên
trong suốt thời gian qua ở Pháp. Phong trào lan nhanh bởi những lời kêu
gọi phát tán trên mạng xã hội đã thổi bùng cơn giận dữ, vượt xa mục tiêu
ban đầu là kích động biểu tình để phản đối chính sách, trở thành bạo
loạn.
Nhìn lại
các cuộc “cách mạng màu” hay các cuộc biểu tình bạo động mang hơi hướng
của “cách mạng màu” được hiện đại hóa trong mấy thập niên gần đây,
chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, chính truyền thông xã hội đã châm ngòi,
thổi bùng bằng kích động, tổ chức và thông tin, khiến ban đầu là các
phong trào đường phố, đi đến bạo động và hệ quả là sự suy yếu nhanh
chóng của các chế độ như ở Đông Âu, Trung Đông, Bắc Phi, Mỹ Latinh(1).
Truyền thông xã hội, tin giả đã trở thành từ khóa làm nhiều người liên
tưởng tới những cuộc xuống đường bạo động khiến cả châu Âu và thế giới
đứng ngồi không yên suốt thời gian qua. Ngay tại Mỹ, sau những cuộc biểu
tình chiếm phố Wall (năm 2011), giới chính trị gia đã chỉ trích đích
danh Facebook, Twitter là “công cụ của bạo loạn”.
Báo chí phương Tây cũng đúc rút phương thức dùng truyền thông xã hội
tạo nên những “đám đông” kích động, đó là: châm ngòi xuống đường; triệt
để lợi dụng các sự cố, tai nạn, những cái chết để tạo cớ bạo loạn; sử
dụng điện thoại di động, mạng xã hội để kích động và liên kết trong,
ngoài(2).
Truyền thông xã hội là một “dòng chảy thông tin”
trên nền tảng, dịch vụ công nghệ cho phép người dùng tạo ra, chia sẻ,
trao đổi, thảo luận và thay đổi các nội dung, thiết lập thành các mạng
lưới liên kết và tương tác xã hội(3). Truyền thông xã hội,
nhất là mạng xã hội liên tục được nâng đỡ, hỗ trợ bởi những công nghệ
mới, ngày càng tiện ích hơn, trở thành kênh quan trọng, thúc đẩy quá
trình giao tiếp và kết nối xã hội. Các thuật toán cho phép các nền tảng
truyền thông xã hội thiết lập các cộng đồng hoạt động dưới nhiều hình
thức khác nhau (diễn đàn, nhóm, hội công khai, hoặc bí mật...) có thể
thu hút từ hàng nghìn lên đến hàng triệu thành viên, không giới hạn về
địa lý, thành phần xã hội. Sự tiếp cận đến từng cá nhân người dùng với
tốc độ nhanh tạo ra nhiều cơ hội và lợi ích về truyền tải, tiếp nhận,
chia sẻ, thông tin, tri thức; phục vụ các nhu cầu đa dạng của cộng đồng
như: kết bạn, giải trí, kinh doanh, bày tỏ quan điểm, phản biện xã hội,
lan tỏa những điều tốt đẹp… Đồng thời, cũng từ các nền tảng truyền thông
xã hội bộc lộ những tác động tiêu cực, ẩn chứa những nguy cơ phức tạp,
khó lường, thậm chí có khả năng gây chia rẽ sâu sắc, kích động hận thù
trong các cộng đồng xã hội, nhất là ở các quốc gia đa sắc tộc, tôn giáo.
Yuval
Noah Harari không hề phóng đại nỗi lo lắng toàn cầu khi cho rằng,
Internet, mạng xã hội “là một vùng đất tự do và vô luật làm xói mòn chủ
quyền quốc gia, phớt lờ các biên giới, phá hủy quyền riêng tư và đem lại
mối đe dọa an ninh toàn cầu có thể nói là đáng sợ nhất”(4). Với những tác động nhiều chiều, có thể xem không gian mạng như “miền chiến sự thứ năm”(5),
ở đó, truyền thông xã hội đóng vai trò là một thứ “quyền lực”, vượt mặt
truyền thông chính thống, thách thức các biện pháp quản lý hành chính
và kỹ thuật của tất cả các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát
triển. Nguồn thu lớn từ truyền thông xã hội vẫn đang đổ về quốc gia phát
triển có trình độ công nghệ cao, những dữ liệu cá nhân đang ở trong tay
số ít các đại gia công nghệ nước ngoài khiến kinh tế, luật pháp, an
ninh, chủ quyền đều bị đe dọa. Có người ví Facebook như một “quốc gia”
lớn và chắc chắn có thông tin về các “công dân” của nó nhiều hơn bất kỳ
chính phủ nào. Khi “dữ liệu trên mạng” là tài nguyên, thông tin là quyền
lực, thì chúng ta có cơ sở để lo lắng rằng người nắm quyền “sở hữu
thông tin” sẽ “tạo ra nhiều nguy cơ mới, đồng thời khuếch đại những nguy
cơ khác”(6). Vụ bê bối dữ liệu do Cambridge Analytica, công
ty phân tích dữ liệu chính trị tiếp cận trái phép và “đầu độc thông tin
chính trị” tới 87 triệu người dùng là bài học đắt giá làm cho câu hỏi:
“Làm thế nào để quản lý được quyền sở hữu thông tin?” trở thành “câu hỏi
mang tính chính trị quan trọng nhất trong kỷ nguyên của chúng ta”(7).
|
Cuộc biểu tình mang tên “Phong trào áo Vàng” đã gây khủng hoảng triền miên trong suốt thời gian qua ở Pháp |
Trước những thách thức hiện hữu và nguy
cơ tiềm ẩn đòi hỏi phải tư duy lại về mô hình và cách thức quản trị
không gian mạng, các quốc gia đang ráo riết thiết lập những hàng rào bảo
vệ bằng việc đưa ra những biện pháp cứng rắn. Bởi lẽ, “Quyền quyết sách
đối với những vấn đề chính sách công liên quan tới mạng Internet là chủ
quyền của các nước”(8). Đức đã thông qua luật về quản lý
mạng xã hội (NetzDG), theo đó, những dịch vụ mạng xã hội nếu để xảy ra
tình trạng người dùng lăng mạ, gây thù oán hay phát tán các tin tức giả
mạo sẽ đối mặt với án phạt nặng có thể lên tới 50 triệu Euro. Australia
tuyên bố sẽ phạt các công ty cung cấp dịch vụ mạng và các trang mạng xã
hội, có thể phạt tới 10% tổng thu nhập hàng năm, thậm chí phạt tù lên
tới 3 năm đối với người điều hành nếu không loại bỏ hoàn toàn các nội
dung xấu. Luật chống tin giả của Ai Cập cho phép cơ quan chức năng quyền
giám sát các tài khoản cá nhân trên những mạng xã hội có trên 5.000
người theo dõi. Luật An ninh mạng của Thái Lan quy định đối tượng phát
tán tin giả sẽ phải chịu 7 năm tù. Philippines mới đây cũng ban hành
luật quy định hoạt động truyền bá thông tin giả mạo bị coi là tội phạm
hình sự, bị phạt tới 6 tháng tù, kèm khoản tiền phạt hơn 3.000 USD. Còn
Singapore, vừa thông qua Dự luật Bảo vệ khỏi sự thao túng và lừa dối
trực tuyến. Người lan truyền tin giả với dụng ý xấu, gây tổn hại nghiêm
trọng lợi ích cộng đồng có thể đối mặt với bản án 10 năm tù, các công ty
mạng xã hội nếu không tuân thủ các quy định có thể bị phạt lên đến 1
triệu đô la Singapore(9)...
Đồ họa: Việt Thái - Báo Tuổi trẻ online |
2.
Trong bối cảnh bất ổn gia tăng ở nhiều nơi trên thế giới, sự ổn định
chính trị, xã hội của Việt Nam là một lợi thế quan trọng để phát triển.
Nhờ nhất quán quan điểm: “Ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong
quá trình vận động, tiến lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới
ổn định được”(10) mà môi trường chính trị, xã hội ổn định,
an ninh, an toàn được giữ vững, nội lực đất nước được khơi dậy và phát
huy, ngoại lực được tiếp nhận và sử dụng hiệu quả, nên sau hơn 30 năm
đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư, của du khách,
là điểm hẹn của khát vọng hòa bình thế giới.
Ổn định chính trị, xã hội dựa vào những nhân tố bên trong và bên ngoài. Trong đó, nhân tố cốt lõi là “yên dân”, là đoàn kết và đồng thuận, là niềm tin xã hội. Trong
quá trình dựng nước, giữ nước, các bậc minh quân luôn coi “yên dân” là
“kế sâu rễ bền gốc”, “gốc có vững thì cây mới yên”, thế nước mới vững
bền. Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng cho thấy,
“dân là gốc” là tư tưởng dẫn dắt, chi phối đường lối, chủ trương, chính
sách, hoạt động của Đảng và Nhà nước; là một trong những bài học kinh
nghiệm lớn trong lãnh đạo của Đảng. Không
ngừng chăm lo, nâng cao đời sống nhân dân, vun đắp cho mối quan hệ máu
thịt giữa Đảng và dân, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng là nền tảng cho sự ổn định chính trị, xã hội của nước ta trong
thời gian qua. Tuy vậy, việc “yên dân” hay lòng dân, niềm tin, đồng
thuận xã hội lại luôn bị thử thách, biến động không ngừng trong
dòng chảy của thế sự, thời cuộc và các va đập của lịch sử. Năm nay thế
này, năm sau có thể thế khác với rất nhiều yếu tố, tầng nấc đan xen tác
động. Trong đó, báo chí, truyền thông nói chung, truyền thông xã hội nói
riêng có vai trò rất quan trọng.
Sau hơn
20 năm Internet có mặt (từ năm 1997), với hơn 60 triệu người sử dụng,
Việt Nam là quốc gia đứng thứ 18 trên thế giới về tỷ lệ người dân sử
dụng Internet và là 1 trong 10 nước có lượng người dùng Facebook và
YouTube cao nhất thế giới. Điều đó cho thấy sự cởi mở, năng động của
Việt Nam trong tiến trình hội nhập cùng thế giới số.
|
Sau hơn 20 năm Internet có
mặt (từ năm 1997), với hơn 60 triệu người sử dụng, Việt Nam là quốc gia
đứng thứ 18 trên thế giới về tỷ lệ người dân sử dụng Internet |
Cũng như các quốc gia khác trên toàn cầu, Việt Nam đang khai thác và
phát huy những đặc tính ưu việt của truyền thông xã hội, đồng thời, cũng
đang phải đối mặt với những tác động tiêu cực khó kiểm soát từ dạng
thức truyền thông mới này.
Có thể
nhận thấy, “hệ sinh thái” mạng xã hội đã hình thành tầng lớp KOLs (Key
Opinion Leader), influencers là những người có “thương hiệu” hoặc là
“người bình thường” mà thông tin, quan điểm nêu ra có sức thu hút, ảnh
hưởng, được “cư dân mạng” chia sẻ, khuếch tán nhanh trên phạm vi rộng.
Họ đa phần là những chủ thể tích cực góp phần tạo nên đời sống thông tin
lành mạnh. Nhưng, cũng đã lộ diện những KOLs, influencers có động cơ
không trong sáng, nền tảng văn hóa thấp, bất mãn chế độ, thậm chí từng
vi phạm pháp luật nhưng lại biết “khơi gợi những cảm xúc xấu xa”; lạm
dụng chữ nghĩa, ảo tưởng “quyền lực bàn phím”, luôn tìm cách điều hướng
dư luận; tấn công doanh nghiệp nhằm trục lợi; đe dọa, xúc phạm cá nhân,
tổ chức… Một số được nuôi dưỡng, cấp phát từ các tổ chức thù địch bên
ngoài. Lợi dụng những bất cập trong quản lý nhà nước về Internet, mạng
xã hội, chúng thâm nhập vào các nền tảng truyền thông xã hội, “nuôi”
nick (tên tài khoản), lập ra hàng trăm nghìn tài khoản ảo và nhiều trang
giả mạo cá nhân, tổ chức. Với nhiều thủ đoạn tinh vi được hỗ trợ bởi
công nghệ, chúng tập trung chống phá nền tảng tư tưởng, phủ nhận thành
tựu của công cuộc đổi mới, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, gieo rắc tư tưởng cực đoan, tạo bất đồng, xung đột trong nội
bộ Đảng và nhân dân. Chúng cường điệu những hạn chế, khuyết điểm trong
lãnh đạo, quản lý để khoét sâu vào xung đột lợi ích, làm chia rẽ xã hội,
suy giảm lòng tin, thực hiện “diễn biến hòa bình”, đòi lật đổ chế độ.
Từ đó, lôi kéo, tập hợp lực lượng, kích động biểu tình trái phép, chống
đối, bạo loạn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự xã hội như
trong các vụ lợi dụng vấn đề môi trường tại Formosa Hà Tĩnh, phản đối Dự
Luật về Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, Luật An ninh mạng…
Có hiện
tượng KOLs, influencers được hỗ trợ “không trong sáng” từ những thông
tin mật trong nội bộ các cơ quan Đảng, Nhà nước bị rò rỉ, không loại trừ
có cả những cái “bắt tay với âm binh” vô cùng nguy hiểm của những cán
bộ suy thoái, cơ hội chính trị, đầy tham vọng cá nhân. Việc các chính
trị gia sử dụng truyền thông xã hội làm công cụ để giao tiếp với công
chúng, xây dựng hình ảnh hay vận động chính trị không phải là mới mẻ
trên thế giới và có thể khuyến khích ở Việt Nam nhưng cần phải được xác
lập thành một trong những nguyên tắc hành xử chính trị công khai và minh
bạch. Còn việc “đi đêm” với các nhân tố mạng xã hội để tạo “sóng” trong
dư luận, vì ý đồ và động cơ cá nhân là điều không thể chấp nhận.
Sự
lệch lạc trong nhận thức về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội sẽ dẫn đến sai lầm trong hành vi, tạo nên những mối nguy về an ninh,
bất ổn chính trị, xã hội. Một bộ
phận người sử dụng mạng xã hội ở Việt Nam thường có xu hướng quan tâm,
thích (like) và chia sẻ (share) thông tin giật gân, tiêu cực, trái chiều
hơn thông tin tích cực, một cách cố tình hoặc vô ý thức, bất chấp các
hậu quả. Nhiều người cho rằng mạng xã hội là ảo, không phải chịu trách
nhiệm về những phát ngôn, hành xử của mình. Tâm lý đó cộng hưởng với các
công cụ được tạo ra để thu hút người dùng của truyền thông xã hội, cùng
với sự bất cập, hạn chế trong quản lý của các cơ quan chức năng càng
làm cho việc phát tán thông tin xấu, độc trở nên dễ dàng và nguy hiểm.
Những
nghiên cứu gần đây chỉ ra, hiện tượng tin giả, các phát ngôn thù ghét,
nói xấu, phỉ báng, vu khống, bịa đặt, kỳ thị dân tộc, tôn giáo, kỳ thị
giới tính, các hành vi gây hấn, tấn công trên mạng,… đang trở nên đáng
báo động(11). Những hành vi lệch lạc này có thể làm khủng hoảng đời sống của cá nhân, tổ chức, gây nặng nề và trầm cảm xã hội, thậm chí những “cơn bão mạng” có thể “khai tử” doanh nghiệp, có cá nhân đã lựa chọn cái chết làm lối thoát.
Tác động
xấu từ truyền thông xã hội có thể dẫn đến những hậu quả trực tiếp, tức
thì, nhưng cũng có những hậu quả len lỏi, lâu dài tích tụ vào ứng xử,
lối sống, dần dần phá vỡ những hệ giá trị văn hóa và đạo đức tốt đẹp.
Những đổ vỡ về giá trị, những tổn thương về tâm lý ảnh hưởng đến đời
sống mỗi cá nhân, từ đó, tác động đến ổn định chính trị, xã hội của quốc
gia. Các nhà xã hội học cho rằng, việc dành quá nhiều thời gian cho
mạng dẫn đến “cô lập với xã hội thực tại”, “xao nhãng các quan hệ đời
thực”, “tin vào đó mà không dành thời gian cho các quan sát, trải nghiệm
và tương tác thực tế để đưa ra các quyết định đúng đắn”, thậm chí lệch
lạc về nhận thức, dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt với
giới trẻ. Về lâu dài, có thể khiến sự cố kết xã hội bị rạn nứt sâu sắc,
gây phân rã, khó tạo nên sự đồng thuận trong việc chung tay giải quyết
các vấn đề của cộng đồng, quốc gia hay nhân loại(12).
Tác
động xấu từ truyền thông xã hội có thể dẫn đến những hậu quả trực tiếp,
tức thì, nhưng cũng có những hậu quả len lỏi, lâu dài tích tụ vào ứng
xử, lối sống, dần dần phá vỡ những hệ giá trị văn hóa và đạo đức tốt
đẹp. |
3. Có những ý kiến về
việc mạng xã hội đã qua đi thời khắc đỉnh cao và đang chững lại. Có
những đánh giá lạc quan rằng người dùng mạng xã hội đang dần trở nên
sáng suốt hơn, bình tĩnh hơn, trang bị bộ lọc tốt hơn, có nhiều kinh
nghiệm hơn sau khi bị tin giả lừa đảo nhiều lần. Nhưng trong thực tế, có
thể khẳng định, truyền thông xã hội là một “mặt trận” ngày càng phức
tạp, mở rộng mà các thế lực thù địch đang lợi dụng để thúc đẩy các “yếu
tố cách mạng sắc màu ở Việt Nam”. Bài học từ những cuộc “cách mạng màu”
cho thấy không thể chủ quan, lơ là mà cần phải chủ động nhận diện, ngăn
chặn kịp thời những nhân tố lợi dụng truyền thông xã hội để tác động đến
ổn định chính trị, xã hội từ nhiều hướng, nhiều cách thức khác nhau.
Yêu cầu ấy đòi hỏi phải nhìn nhận đúng về truyền thông xã hội ở cả hai
mặt tích cực và tiêu cực, nhận diện và quản lý những tác nhân gây ảnh
hưởng để bảo vệ, phát huy những giá trị tiến bộ được xã hội thừa nhận,
đồng thời hạn chế, đẩy lùi, triệt phá những tác động tiêu cực bằng những
giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ và hiệu quả.
Một là, trong lãnh đạo, chỉ đạo cần tiếp tục quán triệt, nhận thức đúng, đầy đủ quan điểm: “không
ngừng đổi mới tư duy lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý báo chí điện tử, mạng
xã hội và các loại hình truyền thông khác trên Internet theo kịp sự
phát triển của công nghệ Internet,… chủ động, kiên trì thúc đẩy phát triển đúng hướng đi đôi với quản lý chặt chẽ”(13).
Xác định rõ, đây là môi trường mở, độc đáo, đặc biệt quan trọng nằm bên
cạnh dòng chảy thông tin của truyền thông truyền thống cần được khai
thác tối đa mặt tích cực, cổ vũ những giá trị tiến bộ, định hướng và
tiến hành đấu tranh đối với những nhận thức, tư tưởng, quan điểm sai
trái. Do đó, phải chủ động đánh giá, dự báo chính xác tình hình; chú
trọng giải quyết thấu đáo các vấn đề bức xúc của người dân; khắc phục
hiệu quả những hạn chế, bất cập, không để hình thành “điểm nóng”, những
xu hướng (trend) tiêu cực trên mạng xã hội. Các cơ quan chức năng cần
cung cấp thông tin cho báo chí một cách đầy đủ, công khai, minh bạch,
kịp thời, nhất là với các vấn đề quan trọng được người dân quan tâm,
không để cho các thế lực thù địch lợi dụng, chiếm lĩnh truyền thông xã
hội. Đồng thời, giữ nghiêm kỷ luật thông tin, kiên quyết đấu tranh, xử
lý nghiêm khắc với các phần tử cơ hội chính trị, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” cố tình làm lộ lọt, cung cấp thông tin nội bộ, hỗ trợ cho
các phần tử mạng xã hội đưa tin sai sự thật, kích động, tấn công vào nội
bộ.
Hai là, khẩn trương thể chế
hóa, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý trong thực tiễn; tích cực xây
dựng khung khổ pháp luật khoa học, tiến bộ để truyền thông xã hội hoạt
động, phát triển lành mạnh, đúng hướng. Thời gian qua, những thay đổi
chóng mặt về thuật toán của các nền tảng công nghệ “làm khó” cả về nhận
thức và hành động khiến các cơ quan chức năng vốn đã chậm trễ, hạn chế
trong quản lý không gian mạng lại càng lúng túng, bất cập, chưa theo kịp
trong việc hoạch định chính sách, pháp luật đối với truyền thông xã
hội. Để quản lý tốt, cần nhanh chóng tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật với
các điều khoản cụ thể, rõ ràng, sát thực, phù hợp, theo kịp tốc độ biến
động của truyền thông xã hội... thay vì chỉ dừng ở quy tắc điều chỉnh
mang tính khuyến nghị đạo đức và văn hóa. Bởi lẽ, khi các ràng buộc pháp
lý không cụ thể, rõ ràng và đủ mạnh thì các quy tắc đạo đức, văn hóa
cũng rất khó để đi vào cuộc sống.
Kiên trì vấn đề có tính nguyên tắc là
các nhà mạng, nhà cung cấp dịch vụ, khai thác dịch vụ nhất là các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới phải có trách nhiệm tuân thủ
luật pháp Việt Nam, tôn trọng chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia Việt
Nam. Yêu cầu các đối tác phải thể hiện sự hợp tác, tuân thủ các quy định
khi vào Việt Nam như đặt cơ quan đại diện, thiết lập tính chính danh
của người dùng trong đăng ký tài khoản, phối hợp tích cực để kịp thời
bóc gỡ những trang mạo danh các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước, xóa bỏ triệt để các tài khoản đưa thông tin sai sự thật,... Cần
coi trọng hơn các biện pháp kinh tế, yêu cầu trách nhiệm của những doanh
nghiệp phải tương xứng với lợi ích mà họ được hưởng. Tích cực triển
khai thực hiện Luật An ninh mạng với các chế tài đủ mạnh để răn đe, xử
lý những hành vi vi phạm, gây hại như lưu trữ, cung cấp, đăng tải, phát
tán tin giả, sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, nói xấu, kích động, chống
phá Đảng, Nhà nước trên Internet, mạng xã hội…
Kiên
trì vấn đề có tính nguyên tắc là các nhà mạng, nhà cung cấp dịch vụ,
khai thác dịch vụ nhất là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên
giới phải có trách nhiệm tuân thủ luật pháp Việt Nam, tôn trọng chủ
quyền, lợi ích, an ninh quốc gia Việt Nam |
Ba là, phát huy vai trò chủ động, tiên phong, dẫn dắt, định hướng của báo chí trong thông tin tích cực. Báo
chí cách mạng cần khẳng định hơn nữa vai trò, vị thế của mình trong
thời đại kỹ thuật số. Dòng thông tin tích cực của báo chí vẫn phải là
dòng thông tin chủ lưu với thông tin chất lượng, chính xác, kịp thời,
khách quan, là bộ lọc đáng tin cậy về mọi vấn đề xã hội, dư luận quan
tâm. Vì vậy, phải khẩn trương tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Luật
Báo chí năm 2016, sửa đổi bổ sung, hoàn chỉnh Luật cũng như các văn bản
dưới Luật để hoàn thiện hơn nữa môi trường pháp lý cho hoạt động báo
chí. Xác định rõ tiêu chí đối với từng loại hình thông tin điện tử nhất
là báo điện tử, tạp chí điện tử, trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng
xã hội; có quy định để điều chỉnh hoạt động của các công ty công nghệ
chuyên cung cấp thông tin báo chí. Tăng cường trách nhiệm của cơ quan
chủ quản, của cơ quan báo chí trong thực hiện tôn chỉ, mục đích và nội
dung thông tin, trong hợp tác hoạt động báo chí, trong đầu tư nền tảng
công nghệ số cho sự phát triển vươn tầm của báo chí. Thực hiện ngay quy
hoạch báo chí đã được phê duyệt trong năm 2019, rà soát cấp phép lại
hoặc thu hồi giấy phép hoạt động đối với các tổ chức, cơ quan trong thời
gian qua đã buông lỏng quản lý, có nhiều vi phạm trong hoạt động báo
chí. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng những người làm báo về bản lĩnh chính
trị, về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, công nghệ, trau dồi đạo đức, ý
thức về sứ mệnh nghề nghiệp, thực hiện tốt quy định về trách nhiệm và
chuẩn mực khi tham gia mạng xã hội.
|
“Lan tỏa tin tốt trên mạng
xã hội mỗi ngày” sẽ giúp cho bạn trẻ hướng tới các giá trị cao đẹp, sống
có ích, có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. |
Bốn là, thúc đẩy các giải pháp công nghệ, các biện pháp kỹ
thuật phù hợp bắt kịp với sự phát triển của Internet, mạng xã hội.
Khuyến khích mạng xã hội có nền tảng công nghệ trong nước phát triển,
khuyến khích các cơ quan, tổ chức trong nước xây dựng mạng xã hội nội
bộ. Tăng cường ứng dụng công nghệ để phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp
thời các thông tin sai sự thật, xấu, độc có ảnh hưởng đến ổn định chính
trị, xã hội. Nâng cao năng lực phân tích, điều tra, nghiên cứu công
chúng, đo lường thái độ của người sử dụng Internet, tham gia truyền
thông xã hội đối với những vấn đề được dư luận quan tâm.
Năm là,
truyền thông xã hội khác biệt vì nội dung do người dùng tạo ra và thông
tin mang tính cá nhân hóa cao, do đó, sự quản lý của Nhà nước là cần
thiết nhưng quan trọng nhất vẫn là ý thức người dùng. Việc người dùng
nâng cao sức “đề kháng”, trang bị hiểu biết về pháp luật, bộ lọc văn hóa
tốt, ứng xử văn minh, lịch lãm trong tranh luận, phản biện, có năng lực
về tin tức, đánh giá được độ tin cậy của thông tin trên truyền thông xã
hội là rất quan trọng. Có như vậy, việc khai thác, sử dụng mạng xã hội
mới hiệu quả, thiết thực và lành mạnh, người dùng mới có thể bảo vệ
những giá trị của bản thân, của cộng đồng và dân tộc.
Cho nên,
cần chú trọng tăng cường các biện pháp tuyên truyền nâng cao hiểu biết
pháp luật, ý thức, trách nhiệm khi tham gia các nền tảng truyền thông xã
hội của mọi công dân. Giáo dục định hướng giá trị để người trẻ biết
tránh khỏi các biểu hiện lệch lạc về nhận thức và hành vi; trang bị cho
học sinh, sinh viên kỹ năng tự bảo vệ thông tin cá nhân, cách thức chắt
lọc, tiếp nhận thông tin.
Phát huy
vai trò của các tổ chức và cá nhân, nhất là những người điều hành
website, blog, fanpage, các KOLs, influencers, người trẻ trong xây dựng
môi trường Internet, mạng xã hội lành mạnh. Mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn
viên, hội viên tham gia mạng xã hội phải giữ vai trò là lực lượng nòng
cốt đăng tải, chia sẻ, lan tỏa thông tin tích cực và xem đây là giải pháp thường xuyên, lâu dài.
Việt Nam
đang là một quốc gia có chính trị, xã hội ổn định và trên đà phát
triển, tuy nhiên, cũng vẫn tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định. Tạo
lập môi trường thông tin lành mạnh, an toàn, trong đó, truyền thông xã
hội là một trong những nguồn
lực thông tin quan trọng, sẽ góp phần tích cực, hiệu quả, bảo vệ, gìn
giữ môi trường chính trị, xã hội ổn định làm nền tảng cho đất nước phát
triển bền vững./.
Võ Văn Thưởng
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng
Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương
___________________________
(1) Từ
“Cách mạng nhung” ở Nam Tư năm 2000, “cách mạng hoa hồng” ở Gruzia năm
2003, “cách mạng cam” ở Ucraina năm 2004, “cách mạng hoa tuy líp” ở
Kyrgyzstan năm 2005, “cách mạng màu Jean” ở Belarus năm 2006, đặc biệt,
“Mùa xuân Ả Rập” ở Tunisia, Ai Cập năm 2010 lan sang Libya, Sirya năm
2011, cho đến những biến động chính trị, xã hội gần đây ở Hy Lạp,
Venezuela, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Áo, Pháp… đều có vai trò tác động
của truyền thông xã hội.
(2) Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Trung tâm Thông tin khoa học Quân sự, Bộ Quốc phòng: Hiểm họa từ mặt trái của Internet, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2016, tr.50.
(3) Hội thảo khoa học thuộc đề tài cấp nhà nước KX.01.10/16-20: Mạng xã hội trong bối cảnh phát triển thông tin ở Việt Nam.
(4) Yuval Noah Harari: Lược sử tương lai, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2018, tr.445.
(5) Bên cạnh mặt đất, bầu trời, biển cả và vũ trụ.
(6) Jean Tirole, nhà kinh tế học giành giải Nobel: Quản lý các tác nhân gây xáo trộn, Dự báo 2019, Đại biến động, TTXVN, Project Syndicate, Hà Nội, 2018, tr.92.
(7) Yuval Noah Harari: 21 Lesson for the 21st Century, Jonathan Cape, London, 2018, p. 80.
(8) Liên hợp quốc: Tuyên bố nguyên tắc Xây dựng xã hội thông tin: Thách thức toàn cầu trong thiên niên kỷ mới, Mục a, Điều 49 (WSIS-03/GENEVA/DOC), Hội nghị thượng đỉnh về xã hội thông tin, Gieneva, 12/12/2003.
(9) Theo Nhân dân điện tử: Cuộc chiến chống tin giả và nội dung bạo lực trên mạng xã hội, 10/4/2019 (http://www.nhandan.com.vn/thegioi/item/39805002-cuoc-chien-chong-tin-gia-va-noi-dung-bao-luc-tren-mang-xa-hoi.html); Theo Vietnamnet.vn: Singapore: Luật chống tin giả khiến người dùng mạng xã hội phải cẩn trọng, 14/05/2019 (https://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe/tin-cong-nghe/singapore-luat-chong-tin-gia-khien-nguoi-dung-mang-xa-hoi-phai-can-trong-531604.html)...
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, P.I, tr.40.
(11)
Theo khảo sát của chương trình nghiên cứu Internet và xã hội (VPIS)
thuộc Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội (năm 2017).
(12)
Nhóm tác giả Nguyễn Hoài Sơn, Lê Quang Ngọc, Nguyễn Quang Tuấn, Nguyễn
Đức Vinh, Viện xã hội học, Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam: Một số chiều cạnh biến đổi xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, (http://www.haiphong.gov.vn/PortalFolders/ImageUploads/SKHCN/12/Cong%20nghiep%204.0/Bien%20doi%20xa%20hoi%20trong%20CMCN%204.0.pdf).
(13) Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI ngày 25/12/2013 về “Phát triển và tăng cường quản lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các loại hình truyền thông khác trên Internet”.